Page 155 - LSDB xa Xuan Ngoc
P. 155
Các loại rau màu (cải bắp, xu hào, cà chua...) được nhân ra
diện rộng trên diện tích hai lúa trong vụ đông. Qua một loạt
các giải pháp đồng bộ, những nỗ lực của Đảng bộ và Nhân
dân Xuân Ngọc đã đưa năng suất lúa của xã liên tục tăng.
Năm 1965, lần đầu tiên đạt 5 tấn/ha, sau đó tiếp tục tăng và
bình quân trong 10 năm (1965 - 1975) đạt 6 tấn/ha.
Được sự quan tâm, chỉ đạo của Ban quản lý hợp tác xã,
ngành chăn nuôi, nhất là chăn nuôi lợn, được đẩy mạnh và
phát triển cả ở hai khu vực tập thể và gia đình. 2 hợp tác xã
có 5 trại chăn nuôi (Bùi Trung 2 trại, Tiền Phong 3 trại), mỗi
năm xuất chuồng khoảng 400 con lợn. Ở khu vực gia đình,
bình quân mỗi hộ nuôi 2 con, chủ yếu là lợn nái để cung cấp
giống cho tập thể và các xã trong vùng. Từ năm 1964 trở đi,
để phục vụ cho nhu cầu kháng chiến, Nhân dân bắt đầu thực
hiện nghĩa vụ thực phẩm cho Nhà nước. Thời gian đầu, thực
hiện giao nghĩa vụ thực phẩm cho hộ gia đình, đến năm 1966
chuyển sang giao cho lao động (mỗi lao động một năm 25kg
thịt hơi), sau đó giao nghĩa vụ thực phẩm cho đất phần trăm.
Bên cạnh việc phát triển đàn lợn, nghề nuôi thả cá cũng được
đẩy mạnh. Các ao của xã viên được hợp tác xã tạo điều kiện
về giống, vốn, kỹ thuật để khuyến khích nuôi thả cá. Hợp tác
xã có các hồ nuôi cá bột và cá thịt do tổ nuôi cá của hợp tác
xã đảm nhiệm, hằng năm cung cấp hàng triệu cá giống cho
xã viên và các hợp tác xã bạn, đồng thời còn bán hàng chục
tấn cá thịt cho Nhân dân.
Để giải quyết việc làm cho số lao động dư thừa, đặc biệt
là trong những tháng nông nhàn, Đảng bộ, chính quyền
và hợp tác xã luôn quan tâm phát triển ngành nghề ở địa
phương. Từ năm 1970, nghề dệt chiếu và thêu ren đã phát triển
155

