Page 509 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 509
Phần thứ hai: LỊCH SỬ 477
2.632 người, tăng 816 người so với năm 1960. Phong trào thi
đua “Ba nhất” được triển khai, tạo chuyển biến nhanh chóng
trong đội ngũ dân quân. Lực lượng dân quân tự vệ được chú
trọng huấn luyện toàn diện, các đơn vị kém đã chuyển biến
thành các đơn vị tiên tiến. Công tác đăng ký, động viên, thi
hành nghĩa vụ quân sự, tuyên truyền học tập, khám sức
khỏe luôn được triển khai, đảm bảo kế hoạch đề ra.
b) Phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
- Tập trung phát triển công nghiệp khai thác than
Thực hiện kế hoạch 5 năm, các ngành công nghiệp tại
Cẩm Phả được tập trung phát triển, đặc biệt là công nghiệp
khai thác than. Sau giai đoạn 1955 - 1960, ngành than Cẩm
Phả đã đi vào sản xuất nhưng những khó khăn dù đã được
khắc phục vẫn còn tồn tại. Các mỏ lộ thiên độ dốc thường
cao, mặt tầng hẹp; mỏ hầm lò nhiều khu vực sản xuất đã
đến giai đoạn chót. Máy móc đã được trang bị nhưng vừa
hạn chế về số lượng, chất lượng đã qua sử dụng lâu năm
nên hư hỏng nhiều, công suất giảm sút. Liên Xô đã hỗ trợ
thiết kế, cải tạo lại mỏ lộ thiên Đèo Nai, Cọc Sáu nhưng sản
lượng các mỏ đã giảm đáng kể. Bắt đầu từ năm 1961, Cẩm
Phả từng bước xây dựng cơ chế quản lý mới, tranh thủ tiếp
thu khoa học kỹ thuật, máy móc thiết bị của các nước xã hội
chủ nghĩa, tích cực khôi phục các mỏ than cũ, đầu tư xây
dựng nhiều mỏ mới, nâng cao sản lượng và chất lượng than.
Các mỏ mới ra đời như mỏ Tây Khe Sím, Tân Lập, Cao Sơn,
Khe Chàm I, Khe Tam... với công suất thiết kế từ 300.000 tấn
(mỏ Tân Lập) đến cao nhất là 2.000.000 tấn (mỏ Cao Sơn).

