Page 510 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 510

478                                   Cẩm Phả - Đất và Người


             Công ty Than Hòn Gai còn mở rộng thêm Công trường khai
             thác than thủ công 1 - 5 (mỏ  Đèo Nai), công trường khai

                                                     1
             thác lò 13 - 50 (mỏ Thống Nhất) .  Để  đảm bảo sản xuất,
             Công ty than Hòn Gai đã chú trọng việc tuyển dụng và đào
             tạo lực lượng cán bộ, công nhân. Số lượng công nhân được

             tuyển mộ mới được đào tạo về kỹ thuật, đào tạo lái máy xúc,
             máy gạt, máy khoan, các loại máy hiện đại... Đội ngũ cán bộ

             tầng trưởng, ca trưởng được cử đi học tập trung, nâng cao
             trình độ đã thay thế lớp cán bộ chỉ huy thủ công. Nhiều cán
             bộ trẻ có trình độ kỹ thuật được giữ cương vị chỉ đạo, điều

             hành sản xuất. Song song với việc nhập trang thiết bị, máy
             móc từ Liên Xô, Công ty than Hòn Gai  đã chủ  động xây

             dựng Nhà máy cơ khí Trung tâm Cẩm Phả, phân xưởng bảo
             dưỡng ô tô tại mỏ Đèo Nai, Cọc Sáu; cải tạo tuyến đường sắt
             từ Cẩm Phả đi Cửa Ông để hỗ trợ ngành than.

                 Để thực hiện thắng lợi kế hoạch đã đề ra, ngành than

             Cẩm Phả phát  động nhiều phong trào sản xuất như
             “Vì miền Nam ruột thịt”, “Mỗi người làm việc bằng hai”,
             “5 tình nguyện”, “3 rèn luyện”, phấn đấu trở thành tổ đội
             lao động xã hội chủ nghĩa; chiến dịch sản xuất “Điện Biên
             Phủ” (nhân kỷ niệm 10 năm chiến thắng  Điện Biên Phủ
             (1954 - 1964) với nhiều giải pháp đồng bộ được triển khai.

             Tinh thần sản xuất  đặt ra là “Tổ quốc cần than như con
             thơ cần sữa mẹ”.  Đã có những tấm gương trong lao  động
             như Anh hùng lao động Hoàng Văn Tiến (mỏ Thống Nhất),

             _______________

                 1. Xem Tỉnh  ủy,  Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh:  Địa chí
             Quảng Ninh, Sđd, t.2, tr.151.
   505   506   507   508   509   510   511   512   513   514   515