Page 543 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 543

Phần thứ hai: LỊCH SỬ                                            511


             xã Cẩm Phả  được  đánh giá là  đơn vị  điển hình trong toàn
             tỉnh về chất lượng giáo dục giai đoạn 1970 - 1975. Tuy nhiên,

             do cơ sở vật chất còn thiếu nên cho đến năm 1973, vẫn còn
             trên 3.100 học sinh phải theo học ba ca.
                 Trước năm 1973, ngành học mầm non còn rất thiếu về

             cơ sở trường lớp. Cùng với sự nghiệp phát triển giáo dục
             phổ thông, từ năm 1973 ngành học mẫu giáo, vỡ lòng của

             thị xã  đã  được chú trọng. Năm học 1973 - 1974, mặc dù
             chưa  đủ cơ sở vật chất nhưng ngành giáo dục thị xã huy
             động được 13 lớp nhà trẻ với 370 học sinh, 93 lớp mẫu giáo

             với 2.822 học sinh ; xây dựng được 152 nhóm trẻ, nhà trẻ
                                   1
             có 1.400 cháu . Việc chăm lo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ
                             2
             cho giáo viên mầm non được chú trọng. Xí nghiệp bến Cửa
             Ông, mỏ Cọc Sáu, khu phố Nam Hải, xã Cẩm Bình, lâm

             trường Cẩm Phả,... là những đơn vị có nhiều quan tâm tới
             các lớp nhà trẻ, mẫu giáo, đầu tư về lớp học, bàn ghế... cho

             các em đi học.
                 Hệ thống các trường, lớp bổ túc văn hóa  được mở rộng.
             Hằng năm, cán bộ cấp huyện, xã được cử đi học tại chức, nâng

             cao trình độ văn hóa như đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ. Đặc
             biệt  ở các cơ quan, xí nghiệp, mỏ than, lâm trường... phong


             _______________

                 1. Xem: “Chỉ thị số 10-CT/TU ngày 20/11/1974 của Thị ủy Cẩm Phả về
             công tác phát triển mẫu giáo, vỡ lòng năm học 1974 - 1975 và 1975 - 1976”,
             Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Cẩm Phả, Hộp số 1, Hồ sơ số 12, tr.15.
                 2. Xem: “Báo cáo số 03-BC/TU ngày 14/3/1974 của Ban Chấp hành
             Đảng bộ thị xã về tình hình năm 1973 và phương hướng nhiệm vụ năm
             1974 (Báo cáo tại Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ X)”, Tlđd, tr.51.
   538   539   540   541   542   543   544   545   546   547   548