Page 463 - Maket 17-11_merged
P. 463
CHƯƠNG TRÌNH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Năm 2016, sau khi mô hình làng thông minh được nghiên cứu và triển khai tại
nhiều địa phương ở Ấn Độ, Rutuja Somwanshi và nhóm tác giả đã đưa ra được năm
vai trò chính của Làng thông minh (i) Hàng hóa được sản xuất và tiêu thụ ngay tại địa
phương; (ii) với việc đầu tư và phát triển sản xuất tại địa phương sẽ giải quyết vấn đề
việc làm cho người lao động trong làng và vùng lân cận; (iii) Việc phát triển các nguồn
năng lượng sạch, tái tạo sẽ làm giảm bớt sự phụ thuộc của con người vào năng lượng
hóa thạch, do vậy sẽ góp phần bảo vệ môi trường của toàn cầu; (iv) Với hệ thống công
nghệ điện tử,thông tin thì người dân có thể học ở bất cứ địa điểm nào và học bất cứ
gì học muốn thông qua hệ thống trực tuyến; (v) Công nghệ thông tin được đưa vào
trong giáo dục và sản xuất nên đẩy mạnh các hoạt động sản xuất đồ điện tử (Rutuja
Somwanshi và nnk, 2016).
Dưới góc nhìn của một nhà chính sách, Làng thông minh hình thành và phát triển
với ba vai trò chính: (i) Bồi dưỡng chuyển giao tri thức và đổi mới sáng tại trong sản
xuất nông nghiệp; (ii) Nâng cao khả năng cạnh tranh giữa các sản phẩm nông nghiệp
ở tất cả các vùng và thúc đẩy công nghệ phát triển nông nghiệp thông minh và quản
lý rừng bền vững; (iii) Thúc đẩy các tổ chức sản xuất chuỗi thức ăn, bao gồm các quy
trình chế biến và tiếp thị sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm từ vật nuôi sạch và quản lý
rủi ro trong nông nghiệp (Oskar Wolski, 2018).
Mạng lưới phát triển nông thôn Châu Âu đưa ra các chức năng của Làng thông
minh là: (i) Tăng cường ứng dụng các công nghệ kỹ thuật số phù hợp với điều kiện
của làng và phù hợp với năng lực của người dân địa phương; (ii) Tăng cường mối liên
hệ, sự liên kết của các thành viên trong làng cũng như với các cộng đồng khu vực lân
cận; (iii) Hình thành và phát triển các hợp tác và liên minh mới: giữa nông dân và các
yếu tố khác tại nông thôn; giữa các làng với nhau; giữa sản xuất cá thể và sản xuất tập
thể, được quản lý từ dưới lên; (iv) Vận dụng được tối đa những tập quán sản xuất và
tri thức bản địa nhằm phát triển bền vững (ENRD, 2018).
Như vậy có thể thấy, mặc dù với những quan điểm nghiên cứu được áp dụng
tại những khu vực khác nhau trên thế giới, Làng thông minh luôn có vai trò chung
là cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân địa phương thông qua giải quyết
vấn đề việc làm, giải quyết vấn đề sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp
được tạo ra tại địa phương, nâng cao chất lượng lao động trong tương lai thông qua
đầu tư cho giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội và dịch vụ nông thôn; đồng thời Làng
thông minh có vai trò quan trọng trong việc đưa các kỹ thuật và công nghệ mới
hiệu quả, phù hợp áp dụng vào sản xuất tại địa phương mà vẫn đảm bảo tính bền
vững trong tương lai.
461