Page 24 - Ky yeu 75 nam Thong ke Phu Tho
P. 24

Ngành Thống kê tỉnh Phú Thọ 75 năm xây dựng và phát triển

                  Công tác thống kê thời kỳ này đã được mở rộng thêm nhiều nội dung. Ngoài việc tập hợp thông tin lập các báo cáo nhanh
            tổng hợp tình hình kinh tế - xã hội hàng tháng, quí, 6 tháng, 9 tháng, năm ngành Thống kê đã triển khai chế độ báo cáo chính thức
            định kỳ năm và biên soạn, xuất bản niên giám thống kê hàng năm. Đồng thời duy trì công tác thống kê cân đối vật chất, cân đối

            thu chi tiền tệ, duy trì công tác xét duyệt hoàn thành kế hoạch nhà nước hàng năm cho các đơn vị cơ sở, các ngành, các huyện,
            thành, thị. Đặc biệt thời kỳ này công tác thống kê tổng hợp tập đã thực hiện thêm chế độ báo cáo thống kê thiệt hại do chiến
            tranh, thống kê thiệt hại do lũ lụt.
                  Thời kỳ này đã thực hiện tính toán được các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của địa phương gồm có 2 chỉ tiêu chính là Sản phẩm

            xã hội và Thu nhập quốc dân. Các chỉ tiêu này được tính theo các ngành thuộc khu vực sản xuất vật chất (Công nghiệp, Nông
            nghiệp, Lâm nghiệp, Xây dựng, Vận tải, Bưu điện, Thương nghiệp và Sản xuất vật chất khác) và phân theo 3 thành phần kinh tế
            (Quốc doanh, Hợp tác xã và Cá thể).

                  Công tác phương pháp chế độ thống kê thời kỳ này đã được chú ý hơn và có tiến bộ rõ rệt so với thời kỳ trước do đã mở
            rộng rất nhiều nội dung, trong đó một nhiệm vụ rất quan trọng là phải đảm bảo tổ chức triển khai, hướng dẫn tất cả các chế độ
            phương pháp thống kê thuộc các lĩnh vực nghiệp vụ chuyên ngành từ Trung ương tới các đơn vị cơ sở, đồng thời còn phải chủ
            động tổ chức triển khai các phương pháp, phạm vi tính toán liên quan tới công tác chung của toàn ngành thống kê. Một số nội
            dung chủ yếu của công tác phương pháp chế độ thống kê được thực hiện trong thời kỳ này là đã triển khai áp dụng các bảng giá
            cố định: năm 1970 để tính toán tốc độ tăng trưởng kinh tế định kỳ (tháng, quí, năm, 3 năm, 5 năm, ...), qui định biểu mẫu chủ yếu
            ghi chép ban đầu theo tiêu chuẩn cho 5 chỉ tiêu (lao động, vật tư, nguyên liệu, tài sản cố định, tiền và phân phối), mở rộng thực
            hiện chế độ ghi chép ban đầu trong các ngành kinh tế; phân ngành trong nền kinh tế quốc dân; sắp xếp các tổ chức, đơn vị và cơ

            quan vào các ngành theo bảng phân ngành kinh tế quốc dân theo quy định của Hội đồng Chính phủ về việc phân chia các ngành
            trong nền kinh tế quốc dân; tổ chức hệ thống thông tin kinh tế (phần nói riêng về hệ thống thông tin thống kê và kế toán); lập các
            Bảng danh mục các cơ quan trung ương, Bảng danh mục các đơn vị hành chính, Bảng danh mục các Ty, Sở và cấp tương đương
            do tỉnh, thành phố quản lý theo Quyết định số 570/TCTK-QĐ, ngày 22/10/1975 của Tổng cục Thống kê.

                  Thời gian đầu sau khi sáp nhập Chi cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc và Chi cục Thống kê tỉnh Phú Thọ thành Chi cục Thống
            kê Vĩnh Phú, trụ sở làm việc của Chi cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phú đóng tại xã Phú Lộc - huyện Phù Ninh (là địa điểm sơ tán). Trụ
            sở làm việc chủ yếu được làm từ tre, nứa, lá. Phương tiện làm việc chủ yếu là các loại tủ, bàn, ghế, ... của hai Chi cục chuyển về.
            Phương tiện tính toán chủ yếu là một số bàn tính gảy và máy tính quay tay NISA. Phương tiện đi lại chủ yếu là xe đạp của cá
            nhân cán bộ, công chức.


            24
   19   20   21   22   23   24   25   26   27   28   29