Page 132 - Học Từ Thất Bại
P. 132

1. Nhận thức được rằng Hy vọng là một


                       lựa chọn




                       Nhà truyền giáo người Anh G. Campbell Morgan đã từng kể
                       câu  chuyện  về  một  người  đàn  ông  bị  cháy  trụi  cửa  hàng

                       trong trận hỏa hoạn khủng khiếp ở Chicago năm 1871. Ngày

                       hôm sau ông đi đến đống đổ nát đó, mang theo một chiếc

                       bàn. Ông đặt chiếc bàn ngay giữa đống gạch vụn, phía trên
                       bàn đặt một tấm biển viết dòng chữ: “Mất tất cả trừ vợ, con

                       và niềm hy vọng. Sáng mai cửa hàng vẫn làm việc như bình

                       thường.”


                         Phản ứng của người đàn ông đó khiến tôi vô cùng ngưỡng

                       mộ. Với mất mát lớn lao như vậy, ông đã lấy hy vọng từ đâu?

                       Từ hoàn cảnh của ông lúc đó? Chắc chắn là không. Từ việc
                       chọn thời điểm đúng lúc? Không. Từ những nạn nhân khác

                       của đám cháy? Không có bằng chứng nào thể hiện điều đó.

                       Có  bao  nhiêu  người  dám  đối  mặt  với  tương  lai  mà  lại  có

                       được thái độ cương quyết tích cực như vậy? Nếu người đàn

                       ông đó nhìn thấy tương lai rạng ngời cho mình và gia đình,
                       đó là bởi ông đã đưa ra lựa chọn là phải hy vọng.


                         Hy vọng nằm trong ADN của tất cả mọi người, đàn ông lẫn

                       đàn bà – những người biết học hỏi từ mất mát của mình. Khi

                       rơi vào hoàn cảnh khó khăn, họ lựa chọn hy vọng, hiểu rằng

                       hy vọng sẽ thúc đẩy họ học hỏi và biến họ từ nạn nhân trở

                       thành người chiến thắng.

                         Một vài người nói rằng trong cuộc sống, lựa chọn hy vọng

                       khó như hái sao trên trời. Họ khẳng định rằng đó là điều phi

                       thực tế. Tôi không đồng ý. Trong cuốn Chân giá trị của Sự

                       khác  biệt  (The  Dignity  of  Difference),  Jonathan  Sacks  đã
   127   128   129   130   131   132   133   134   135   136   137