Page 207 - LSDB xa Xuan Thuong
P. 207
trong quản lý trên cả 3 khâu: quản lý sản xuất, quản lý lao
động và quản lý tài vụ. Tình trạng rong công phóng điểm
tràn lan làm cho giá trị về công lao động giảm, thu nhập của
xã viên thấp dẫn đến tinh thần làm việc không hăng hái,
nhiệt tình, thiếu gắn bó với hợp tác xã. Nhiều hộ nông dân
thiếu ăn, đứt bữa, nợ nần dây dưa, khê đọng sản phẩm.
Trước thực trạng đó, để thay đổi cách quản lý sao cho
chất lượng và hiệu quả, một số địa phương tiến hành đổi
mới cơ chế quản lý bằng cách khoán sản phẩm trong nông
nghiệp như Đồ Sơn (Hải Phòng)... Hội nghị lần thứ 6 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV (tháng 8/1979), chủ
trương khuyến khích mọi năng lực sản xuất, làm cho “sản
xuất bung ra”. Đây là chủ trương khởi đầu của quá trình tìm
tòi đổi mới. Sau khi tổng kết kinh nghiệm khoán sản phẩm
trong nông nghiệp từ cách làm ở Đồ Sơn (Hải Phòng) và một
số địa phương làm thí điểm khác. Ngày 13/01/1981, Ban Bí
thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW về
“Khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp
tác xã nông nghiệp” (gọi tắt là Khoán 100). Đây là bước đổi
mới quan trọng trong cơ chế quản lý kinh tế ở các hợp tác xã
nông nghiệp.
Mục đích của Chỉ thị 100 là đảm bảo phát triển sản xuất,
nâng cao hiệu quả kinh tế, lôi cuốn mọi người hăng hái lao
động, sử dụng tốt đất đai và cơ sở vật chất - kỹ thuật, tiết
kiệm chi phí sản xuất, củng cố và tăng cường quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, không ngừng nâng
cao thu nhập và đời sống của xã viên, tăng tích lũy của hợp
tác xã, làm tròn nghĩa vụ và tăng khối lượng nông sản cung
ứng cho Nhà nước.
206

