Page 231 - LSDB xa Xuan Thuong
P. 231
Năng suất lúa ổn định, đời sống xã viên nâng lên, việc
thu hồi sản phẩm được xã viên giao nộp nhanh gọn, nợ mới
không còn, nợ cũ đã trả gần hết, đến năm 1990 hợp tác xã chỉ
còn nợ 3,8 tấn. Quỹ vốn hợp tác xã tăng, đảm bảo điều hành
sản xuất, xây dựng kiến thiết địa phương và hỗ trợ các hoạt
động của tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể. Cuối
năm 1990, tài sản cố định của hợp tác xã khoảng 290 triệu,
vốn và quỹ hợp tác xã khoảng 188 triệu đồng, trong đó thóc
92 tấn, tiền mặt và tiền gửi ngân hàng 61 triệu đồng, vật tư
trị giá khoảng 40 triệu đồng.
Về chăn nuôi, từ khi chuyển sang chăn nuôi theo hộ gia
đình, đàn lợn lúc thấp nhất có 1.500 con, lúc cao 1.600 con,
lợn nái đã tăng nhanh từ 75 con trước đây lên 170 con vào
năm 1988, 1990. Trọng lượng bình quân lợn xuất chuồng
thấp, đạt từ 50 - 60 kg/con. Đảng bộ chỉ đạo phát triển ngành
chăn nuôi với những biện pháp cụ thể như tổ chức tiêm phòng
định kỳ cho đàn gia súc, gia cầm ở các hộ chăn nuôi, vì vậy
nhiều năm liền ở xã không xuất hiện ổ dịch. Tuy nhiên, thời
kỳ này chăn nuôi gặp không ít khó khăn, lợn xuất chuồng bị
ứ đọng, giá cả chưa phù hợp với vốn đầu tư nên chưa khuyến
khích được chăn nuôi phát triển.
Trong 3 năm (1988 - 1990), hợp tác xã đã giao nộp cho Nhà
nước: thuế nông nghiệp 339 tấn, phí thủy lợi 95 tấn và
29 nghìn ngày công nghĩa vụ. Đã thực hiện chế độ hạch toán
công khai đảm bảo lợi ích xã viên, quỹ hợp tác xã được sử dụng
đúng mục đích, đóng góp và thanh toán sòng phẳng với Nhà
nước. Sản lượng nông nghiệp được đẩy mạnh và phát triển.
Từ năm 1988 do cơ chế thay đổi (tự hạch toán kinh doanh)
ngành hợp tác xã mua bán gặp nhiều khó khăn. Vốn kinh doanh
230

