Page 197 - LSDB huyen Xuan Truong
P. 197

nguồn phân bắc cho chăm bón lúa hoặc trộn phân đạm với đất
            bột vo viên dúi gốc lúa được quan tâm chỉ đạo. Phong trào làm
            phân xanh, bèo hoa dâu, trồng điền thanh, bón vôi cải tạo đồng
            ruộng ở nhiều hợp tác xã nông nghiệp tiếp tục được đẩy mạnh.
            Vụ chiêm năm 1966, bình quân các hợp tác xã nông nghiệp trong
            huyện đã bón hơn 1.100 kg phân chuồng/mẫu lúa. Song, ở một số
            nơi, xã viên thực hiện một số khâu canh tác như thời vụ gieo cấy
            và chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh... cho lúa và hoa màu chưa bảo
            đảm. Các công cụ lao động như thuyền, xe cải tiến, liềm cắt, liềm
            xén, cào cỏ, bình bơm thuốc trừ sâu... của nhiều hợp tác xã không
            được trang bị đầy đủ. Việc quản lý lao động tập thể còn rất lỏng
            lẻo. Những tồn tại này đã ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất,
            sản lượng lúa của huyện trong cả 2 vụ. Năng suất lúa nhìn chung
            đạt thấp, nhất là vụ chiêm. Năm 1966, năng suất lúa chiêm chỉ
            đạt 4,4 tạ/mẫu (11,9 tạ/ha). Sản xuất nông nghiệp của huyện vẫn
            mang tính độc canh, kết quả trồng màu còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ
            diện tích cây màu so với tổng diện tích gieo trồng còn thấp. Xuân
            Thủy có 30/738 mẫu ruộng; Xuân Ngọc có 22/718 mẫu; Xuân Lạc
            có 36/772 mẫu; Xuân Tiến có 16/582 mẫu... Bình quân lương thực
            chỉ đạt 12,5 kg thóc và 0,5 kg màu/người/tháng. Do vậy, huyện
            không hoàn thành việc thực hiện nghĩa vụ lương thực với Nhà
            nước các năm 1965, 1966. Nhà nước phải miễn giảm thuế cho
            một số hợp tác xã nông nghiệp hoặc cho nộp thuế bằng tiền.
               Năm 1966, phong trào chăn nuôi tập thể vẫn được duy trì và
            phát triển. Tổng đàn lợn bằng 97,69% so với năm 1965, nhưng
            đàn trâu, bò tăng 13,29%. Đàn lợn tập thể chiếm 16,67% tổng
            đàn. Tuy chăn nuôi tập thể có tăng nhưng phong trào chưa vững
            chắc. Chăn nuôi hộ gia đình giảm mạnh, nhiều hộ dân còn để
            trống chuồng. Vấn đề giống, thức ăn, thú y và việc áp dụng kỹ
            thuật trong chăn nuôi, nhất là chăn nuôi lợn tập thể chưa bảo
            đảm. Tỷ lệ trâu, bò già, yếu còn chiếm tới 23% tổng đàn và tình
            trạng trâu, bò thiếu thức ăn có lúc diễn ra trầm trọng đã ảnh
            hưởng nhiều đến sức kéo phục vụ ngành trồng trọt.
               Năm 1967, huyện phát động phong trào “Núi phân bùn, biển
            bèo dâu, rừng điền thanh”, được Nhân dân trong huyện đồng tình

            196
   192   193   194   195   196   197   198   199   200   201   202