Page 202 - LSDB huyen Xuan Truong
P. 202

và đời sống nhân dân. Năm 1965, giá trị hàng hóa của các hợp
            tác xã mua bán trong huyện mua vào và bán ra đều đạt 100% kế
            hoạch. Các cửa hàng mậu dịch quốc doanh bán ra đạt 85,7% kế
            hoạch, trong đó mặt hàng thực phẩm đạt 97%, dược phẩm đạt
            100%, vật liệu xây dựng đạt 74,5%, nông sản đạt 77% kế hoạch.
            Các mặt hàng như tơ, đay, cói mua vào đạt kế hoạch. Kết quả
            huy động lương thực đạt 110%, kén 163%, cói 110%, đay 154% kế
            hoạch và là năm thu mua đạt số lượng cao nhất so với trước.

               Ngành tài chính tập trung thực hiện tăng thu, giảm chi. Năm
            1965 thu 350.487 đồng, đạt 109 kế hoạch, tăng 11% so với năm 1964.
            Riêng  thuế  công  thương  nghiệp  thu  385.668  đồng,  đạt  110%  kế
            hoạch, tăng 32%. Ngành ngân hàng cho vay 756.000 đồng, đạt 100%
            kế hoạch và huy động vốn tiết kiệm đạt bình quân 1,7 đồng/người.
            Các hợp tác xã tín dụng cũng tích cực hoạt động, góp phần tăng
            cường quản lý tiền mặt và tương trợ vốn cho các đơn vị tập thể
            thực hiện kế hoạch thương nghiệp và đẩy mạnh sản xuất.

               Năm 1967, thu tài chính đạt 83,7% kế hoạch, tăng 5% so với
            năm 1966. Ngân sách xã thu 155.442,5 đồng, đạt 90% kế hoạch;
            thu nợ đạt 12.000 đồng, vượt 21% kế hoạch. Hoạt động cho vay đã
            tập trung đầu tư cho thủy lợi tăng gấp 10 lần, cho cơ khí gấp 4 lần,
            mua nông cụ gấp 3 lần. Kết quả thu tiền mặt đạt gấp 5 lần năm
            1966. Huy động tiền Nhân dân gửi tiết kiệm trên 2,6 triệu đồng.
               Năm 1968, hoạt động tín dụng ngân hàng vẫn tập trung cho
            vay dài hạn đối với các hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tiểu
            thủ công nghiệp, nghề cá và giao thông vận tải; huy động tiết
            kiệm đạt bình quân 21,8 đồng/người. Lá cờ đầu trong phong trào
            gửi tiền tiết kiệm là xã Xuân Phương.

               Từ năm 1965, ngành giáo dục bảo đảm chất lượng giảng dạy
            và học tập, gắn với sản xuất và chiến đấu. Mặc dù phải sơ tán, cơ
            sở vật chất thiếu thốn song thầy và trò đã khắc phục khó khăn để
            dạy tốt, học tốt. Số lượng học sinh đến trường mỗi năm một tăng,
            năm 1965 có 22.701 em . Tỷ lệ tốt nghiệp cấp I đạt 93,9%, cấp II
                                     (1)

            (1)  Cấp I có 14.296 em; cấp II có 15 lớp với 3.371 em; cấp III có 1 trường với
            546 học sinh; học sinh vỡ lòng có 4.688 cháu.
                                                                             201
   197   198   199   200   201   202   203   204   205   206   207