Page 258 - LSDB xa Xuan Thanh
P. 258
diện tích vùng cao. Khâu làm đất tận dụng được sức người,
máy kéo và trâu, bò nên khâu cấy đảm bảo kịp thời vụ. Năng
suất lúa bình quân năm 1989 đạt 72,6 tạ/ha, năm 1991 đạt
78,2 tạ/ha. Năm 1991, 10 đội sản xuất trong tổng số 12 đội
sản xuất của xã có phong trào xã viên cấy giống lúa ngắn
ngày trên ruộng mạ với diện tích 50 mẫu, thu trên 80 tấn
thóc. Sản lượng lương thực của xã năm 1991 đạt 2.175 tấn,
tăng 24,2% so với năm 1990. Lương thực bình quân đầu người
năm 1990 là 420 kg, năm 1991 là 470 kg.
Về chăn nuôi, mặc dù có khó khăn về vốn đầu tư, về giá
cả và nguồn tiêu thụ, đàn lợn trong xã vẫn được duy trì từ
1.100 - 1.200 con, đàn lợn nái tăng nhanh. Đàn trâu vẫn giữ
vững để đảm bảo sức kéo là 95 con. Đàn bò có 50 con (năm
1989) và tăng lên 60 con (năm 1991).
Về trồng cây công nghiệp, Nhân dân trong xã tận dụng
vườn, gồ, bãi, trồng hằng năm từ 20 - 30 mẫu đay, không đạt
kế hoạch do nguồn tiêu thụ và giá cả không ổn định. Nghề
trồng dâu nuôi tằm cũng ít nhiều bị mai một, ảnh hưởng đến
nguồn thu nhập chung trong xã.
Để giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho xã viên, hợp
tác xã luôn quan tâm đẩy mạnh, phát triển các ngành nghề
sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nghề sản xuất
ngói thực hiện phương thức đấu thầu, kinh doanh có lãi, sản
xuất phát triển, đáp ứng nhu cầu của Nhân dân trong xã và
các xã bạn. Nghề mây tre đan ở xóm 5 sản xuất các mặt hàng
thiết yếu của địa phương vẫn được giữ vững. Năm 1991, trong
xã nổi lên 5 cơ sở buôn bán và sản xuất các mặt hàng lâm
sản, được địa phương quan tâm khuyến khích. Nghề thảm
chiếu cói nhiều năm phát triển, thu hút hàng nghìn lao động
257