Page 298 - Tiếng Việt Tuyệt Vời
P. 298
Tiếng Việt Tuyệt-Vời Đỗ Quang-Vinh
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu,
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp, ai sầu hơn ai?
Những tiếng "thấy", "mấy", cùng phát ra một âm "ây" và
cùng gieo trắc-thanh. Những tiếng "dâu, màu, sầu" có âm
"âu" và âm "au" tương-tự, cùng gieo bình-thanh. Tất cả từng
cặp một như thế gọi là "vần với nhau".
Vần ở cuối câu gọi là cước-vận tức là gieo ở chân câu (cước
là chân). Vần gieo ở lưng-chừng câu gọi là yêu-vận (yêu =
lưng). Chính sự phối-trí âm thanh nhịp điệu là yếu-tố cơ bản
của thơ. Tùy theo vị-trí của vần, câu thơ ngắt nhịp, hòa-âm,
đọc lên nghe nhịp-nhàng, êm-ái du-dương.
Tùy theo cách gieo vần và câu dài, ngắn, thơ có nhiều thể
khác nhau, nhiều lối khác nhau. Có thơ vần và thơ xuôi. Thơ
vần có thơ cổ và thơ mới.
Về thơ cổ, ngoài lối cổ-phong có dáng-dấp như lối văn Kinh-
Thi, và thể thơ Ðường-luật, áp-dụng luật thơ Hán-Văn đời
Ðường bên Trung-Quốc, phải nói đến thể thơ thuần-túy Việt-
Nam là lục-bát và song thất lục bát, rất được dùng trong ca-
dao Việt-Nam.
Người viết không lạm-bàn sang địa-hạt văn-học-sử và nghệ-
thuật viết văn để trình bày về các thể thơ và cách làm thơ,
chỉ đan-cử một vài thể thơ thông-thường, gọi là vẽ ra một
khuôn dáng nhạc-điệu trong thơ. Chính khuôn dáng này làm
cho thơ nói riêng, ngôn-ngữ Việt nói chung có nhạc-tính, có
âm-nhạc sống động. Không luận riêng về thi-luật, thi-pháp,
297