Page 306 - Dang bo huyen Tien Yen qua cac nhiem ky Dai hoi 16x24
P. 306

ÑAÛNG BOÄ HUYEÄN TIEÂN YEÂN QUA CAÙC NHIEÄM KYØ ÑAÏI HOÄI


            khai hoang, phục hóa mở rộng diện tích ở những nơi có điều kiện.
            Ngăn chặn việc lấn chiếm đất canh tác. Phấn đấu mỗi năm bình
            quân tăng 300 tấn sản lượng lương thực, đến năm 1988 tổng sản
            lượng lương thực đạt 9.200 tấn (trong đó có từ 20 - 30% là màu quý).
            Bảo đảm năng suất bình quân đạt 5 tấn thóc/ha (trong đó có phần
            lớn các hợp tác xã vùng thấp phải đạt 6 tấn/ha trở lên). Vận động
            Nhân dân chuyển số diện tích trồng mía ăn sang trồng mía đường.

               Tích cực lãnh đạo chỉ đạo, khai thác mọi nguồn vốn tích lũy của
            tập thể và hộ xã viên để tăng nhanh đàn gia súc (đặc biệt nhất là
            đàn trâu, bò cày kéo). Phấn đấu đến năm 1988 có 5.000 con trâu,
            500 con bê, 12.000 con lợn (trong đó có 10% trở lên là lợn nái), 3.000 -
            5.000 con vịt đẻ.

               Để đạt được những mục tiêu trên, phải tiếp tục coi thủy lợi là
            biện  pháp  hàng  đầu  phục  vụ  cho  sản  xuất  nông  nghiệp,  thường
            xuyên tu bổ hệ thống kè cống, làm thủy lợi nhỏ, kiên cố cho những
            công trình đã có phục vụ cho thâm canh, đồng thời khảo sát thiết kế
            xây dựng thêm một số công trình loại vừa ở vùng thấp và thủy điện
            kênh mương nhỏ ở vùng cao nhằm tăng diện tích lúa cấy một vụ lên
            cấy hai vụ ở các xã Tiên Lãng, Đông Ngũ, Phong Dụ.
               Cơ cấu trồng 100 ha cây vụ đông vào giữa hai vụ lúa (trong đó có
            50% diện tích được trồng cây thuốc lá đông).

               Tích cực lãnh đạo, chỉ đạo nhân, nhập giống mới, phấn đấu đến
            năm 1988 phải nhân, nhập thuần chủng được 100% giống lúa mới,
            50% giống lợn lai, 100% giống ngô lai có năng suất cao.

               Tập trung vào việc lãnh đạo, chỉ đạo làm phân bón, huy động mọi
            nguồn phân hữu cơ (kế cả việc nuôi thả bèo ở những vùng trọng điểm
            lúa) bảo đảm ít nhất mỗi héc-ta lúa được bón 8 tấn phân chuồng đối
            với vùng thấp, 5 tấn phân chuồng đối với vùng cao trở lên. Tiếp
            nhận, cung ứng kịp thời nguồn phân vô cơ của Nhà nước bảo đảm
            bình quân mỗi héc-ta lúa được bón 100 kg đạm urê, 80 kg phân lân
            trở lên và được sử dụng theo đúng quy trình kỹ thuật, đưa việc thâm
            canh trở thành phong trào sâu rộng trên địa bàn huyện. Trước hết,
            đối với các hợp tác xã vùng thấp, phải đầu tư xây dựng thâm canh
            cho 40% diện tích thành những cánh đồng cao sản đạt 6,5 tấn thóc/
            ha trở lên. Phấn đấu đến năm 1990, hầu hết các hợp tác xã vùng

                                                                            307
   301   302   303   304   305   306   307   308   309   310   311