Page 363 - Dang bo huyen Tien Yen qua cac nhiem ky Dai hoi 16x24
P. 363

ÑAÛNG BOÄ HUYEÄN TIEÂN YEÂN QUA CAÙC NHIEÄM KYØ ÑAÏI HOÄI


            giống lúa và ngô phù hợp với sinh thái ở địa phương, diện tích gieo
            cấy lúa mới (vụ đông xuân) chiếm 70% diện tích, ngô lai chiếm 80%.
            Cơ chế khoán mới tiếp tục phát huy hiệu quả, hộ gia đình xã viên
            là đơn vị kinh tế tự chủ, được giao quyền sử dụng ruộng đất bước
            đầu giải phóng sức sản xuất, khai thác tiềm năng lao động đất đai
            và vốn của Nhân dân. Thực tế khẳng định Nghị quyết số 10 của Bộ
            Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp là đúng đắn, phù
            hợp với điều kiện kinh tế địa phương và nguyện vọng của Nhân dân.
               Tuy vậy, sản xuất nông nghiệp phát triển chậm và chưa ổn định
            còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, bình quân lương thực đầu
            người toàn huyện còn thấp (261 kg); cơ sở vật chất - kỹ thuật phục
            vụ sản xuất nhất là thủy lợi nghèo nàn; việc áp dụng kỹ thuật vào
            sản xuất chậm trễ, gần đây có tiến triển nhưng là tự phát trong dân;
            phần lớn các ban quản lý hợp tác xã (42/48) chưa thực hiện được việc
            tổ chức khâu dịch vụ sản xuất và một số nhiệm vụ quản lý cần thiết,
            tình trạng khoán trắng cho xã viên diễn ra phổ biến. Sự quản lý chỉ
            đạo của ngành nông nghiệp thiếu chặt chẽ, chưa tạo ra sự chuyển
            biến thâm canh, đổi mới cơ cấu giống và mùa vụ. Việc tranh chấp
            đất đai gần đây đã xuất hiện, tuy lẻ tẻ nhưng nếu không tích cực
            giải quyết sẽ dẫn đến phức tạp.
               Lâm nghiệp là thế mạnh của huyện Tiên Yên (rừng và đất rừng
            chiếm 75% tổng diện tích) nhưng do hậu quả của chiến tranh và
            công tác quản lý bảo vệ kém nên diện tích rừng ngày càng thu hẹp,
            đất trồng đồi trọc tăng nhanh (chiếm 63% diện tích đất lâm nghiệp).
               Với chủ trương dùng tiền thuế nuôi rừng đầu nguồn, đầu tư trở
            lại cho trồng rừng bằng cách cho dân vay vốn dài hạn (không tính
            lãi) hoặc hỗ trợ về cây giống, phân bón nên phong trào trồng cây
            gây rừng được Nhân dân hưởng ứng. Đến năm 1991, riêng khu vực
            Nhân dân trồng được 218 ha, trong đó có 163 ha quế, nếu tính cả
            quốc doanh thì 3 năm qua đã trồng được 401 ha. Công tác quản lý
            bảo vệ rừng có chuyển biến tốt, số vụ đốt phá rừng bừa bãi giảm
            nhiều so với các năm trước. Do đó một số khoản rừng có khả năng tái
            sinh nhanh. Tuy nhiên kết quả đạt được chưa tương xứng với tiền
            của, công sức bỏ ra; chất lượng rừng mới trồng thấp và chưa đạt mục
            tiêu về diện tích do Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XVIII đề
            ra (mỗi năm trồng 300 ha). Công tác giao đất, giao rừng chậm, hiệu

            364
   358   359   360   361   362   363   364   365   366   367   368