Page 358 - Di san van hoa An Duong
P. 358
Niệm Nghĩa, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương. Ông có sức khỏe,
nên được người đương thời gọi là ông Thiên Lôi. Trừ được voi dữ cho vua Mạc nên
ông được ban chức tước và trở thành võ quan cao cấp của triều Mạc bằng thanh
gươm trận. Sau này, do bất đồng quan điểm với nhóm cựu hoàng trong triều đình
về việc đưa vua Mạc Phúc Nguyên mới 5 tuổi lên ngôi, ông đã mang quân ra ngoài
cát cứ và có lần mang binh sang đánh Trung Quốc để đòi lại đất của ông cha bị
người Trung Quốc chiếm giữ. Nhà Minh không kiềm chế được ông nên đã thúc
ép triều Mạc ngầm giết hại ông. Theo thần tích, bè chở quan quách thủ cấp của
ông từ Trung Quốc về nước Nam không ai đẩy vẫn đi về tận đến bến sông Niệm
quê hương ông. Dân làng Niệm đêm được báo mộng đã rước về dựng lăng miếu
thờ phụng. Ngọc phả chép, bè chở thủ cấp của ông trôi qua các bến sông, ở
những nơi đó đều được người dân lập đền, miếu phụng thờ. Tương truyền, Ngài
Phạm Tử Nghi thường hiển linh phù hộ cho người dân làm ăn trên sông nước và
những nơi cửa biển, bến sông. Làng Hoàng Mai trước kia có nhiều kênh, lạch lớn
chảy ra sông Lạch Tray, nơi ấy cũng có bến sông của dân làng để làm ăn, sinh
sống. Bởi vậy, người dân làng Hoàng Mai vùng đất gần bến sông đã dựng ngôi
miếu để thờ Phạm Tử Nghi, với mong cầu Ngài phù hộ, độ trì cho cuộc sống lao
động lam lũ, bươn chải trên sông nước. Người dân Hoàng Mai đã tôn vinh phụng
thờ Ngài Phạm Tử Nghi làm Thành hoàng làng. Tại làng Hoàng Mai các vị chức
sắc đã sao chép sắc phong của Ngài như sau:
- Niên hiệu Cảnh Trị, năm thứ 8 (1670) sắc ban cho Ngài là “Khang quốc,
Bảo dân, Chí đức Đại vương Thượng đẳng thần”.
- Niên hiệu Vĩnh Hựu, năm thứ 5 (1739), phong là “Nam Hải Đại Vương
Thượng đẳng thần”
- Niên hiệu Cảnh Hưng, năm thứ 44 (1783), sắc phong là: “Bảo đại, Sùng
công, Hòa tượng Đại Vương”.
- Niên hiệu Thiệu Trị, năm đầu (1841), sắc phong “Nam Hải, Bảo đại, Hoàng
hiệp chi thần”.
- Niên hiệu Tự Đức, năm đầu (1848), gia phong “Nguy tuấn, Huyền thông,
Tĩnh an, Quảng lợi, Uông nhuận, Trung đẳng thần”.
- Niên hiệu Tự Đức, năm thứ 33 (1880), gia phong “Nguy tuấn, Huyền thông,
Tĩnh an, Quảng lợi, Uông nhuận, Nam Hải Đại Vương, Trung đẳng thần”.
DI SẢN VĂN HÓA TIÊU BIỂU HUYỆN AN DƯƠNG 358