Page 266 - 7. QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH 2021
P. 266

Sa từ tay quân ngụy, cho tới nay chúng ta đã khẳng định chủ quyền và đóng giữ

            phần lớn các đậo thuộc quần đảo Trường Sa.

                    Thực trạng ttên quần đảo Trường Sa hiện nay: Có mặt lực lượng của 4

            nước 5 bên và yêu sách về chù quyền có 5 nước 6 bên, cụ thể: Việt Nam, thực

            hiện chủ quyền và đóng giữ 21 đảo (gồm 9 đảo nổị, 12 đảo đá ngầm với 33 điểm

            đóng quân) khoảng 70% diện tích tự nhiên của toàn bộ quần đảo; Trung Quốc,

            đánh chiếm trái phép 7 đảo, đá; Đài Loan, chiêm đóng đảo Ba Bình năm 1947,
            cắm mốc Bãi cạn Bàn Than năm 2003; Philippines chiếm đóng 9 đao; Malaysia,

            chiếm đóng 7 đảo; Brunei không có đảo nào song vẫn yêu sách chủ quyền. Hiện

            nay, trên Quần đảo Trường Sa tình hình tương đối phức tạp, các nước đều đẩy

            mạnh các hoạt động để khẳng định chủ quyền.


                   1.4.2. Biển Đông với phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam

                   Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nhiều thuận lợi hon về điều kiện

            địa lý biển so với nhiều qùốc gia ven biển khác. Bờ biển Việt Nam dài khoảng

            3.260km, đứng thứ 27 về chiều did bờ biển trong tổng số 157 nước ven biển,
            đảo quốc và vùng lãnh thổ ven biển của thế giói. Trên thể giới, trung bình

                                                                                                   2
                     2
            600km  đất liền mới có Ikm bờ biển, tỷ lệ đó ở Việt Nam là 100 km /lkm (Thái
                               2
            Lan là 140 km /lkm, Trung Quốc là 533 km /lkm...). Diện tích biển của Việt
                                                                      2
            Nam chiếm khoảng 29% diện tích của Biển Đông, rộng gấp ba lần diện tích lãnh

            thổ đất liền.

             Việt Nam có chủ quyền gần 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ và 2 quần đảo xa bờ là

            Hoàng Sa và Trường Sa. Tài nguyên vùng biển và ven biển Việt Nam được đánh

            giá rất phong phú và đa dạng, phân bố rộng khắp trên dải đất liền ven biển đến

            các vùng nước ven bờ, các hải đảo và các vùng biển khơi. Ven biển Việt Nam
            có khoảng 110 cửa sông đổ ra biển. Trung bình khoảng 30km bờ biển có một

            cửa sông. Hiện nay, cả nước có hơn 90 cảng lớn, nhỏ, với 24.000m cầu cảng và

            10 khu chuyển tải, có cầu cảng có thể tiếp nhận được tàu tới 50.000 tấn.

                   Cả nước có 63 tỉnh, thành thi 28 tỉnh, thành có biển, trong đó cỏ 12 huyện

            đảo. Trên 50% số dân. của Việt Nam sống ở các tỉnh ven biển. Đó là những điều

            kiện khách quan thuận lợi để chúng ta phát triển một cách đa dạng các ngành

            kinh tế biển, bao gồm kinh tế biên khơi, kinh tế ven biển và kinh tế hải đảo. Để




            290
   261   262   263   264   265   266   267   268   269   270   271