Page 1005 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 1005
Phaàn VI: Löôïc chí caùc xaõ, phöôøng 1005
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân Khoái Lạc vừa tham gia sản
xuất vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến. Trước những đợt bắn
phá của máy bay Mỹ trên bầu trời miền Bắc, thôn Khoái Lạc được thiết lập một đội dân
quân trực chiến bắn máy bay, sẵn sàng đáp trả những đợt bắn phá của không quân Mỹ.
Qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, hàng trăm thanh
niên trên địa bàn xã Sông Khoai đã lên đường nhập ngũ, trong đó có 42 người đã anh
dũng hy sinh được công nhận liệt sĩ; 19 thương binh, bệnh binh . Hàng trăm người được
(1)
Nhà nước tặng thưởng huân, huy chương các loại.
5. Kinh tế
Trải qua gần 40 năm hình thành, xây dựng và phát triển, cán bộ, đảng viên và nhân
dân Sông Khoai đã vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, biến miền đất hoang vu thành
vùng kinh tế trù phú. Trong những năm qua, kinh tế Sông Khoai có sự chuyển dịch
đúng hướng, giảm dần tỷ trọng nông - lâm - ngư nghiệp và tăng nhanh tỷ trọng ngành
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ. Đến năm 2023, tỷ
trọng ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng chiếm 55,2%; ngành thương
mại - dịch vụ chiếm 39%; ngành nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 5,8%.
Nông - lâm - ngư nghiệp
Trong những năm đầu khai hoang, vụ mùa, vụ đông xuân chiếm đa số với khoảng
90% là lúa chiêm đá, còn lại là lúa hom, năng suất chỉ đạt 20 - 25 tạ/ha. Từ khi triển
khai thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông
nghiệp và Nghị quyết 02 của Tỉnh ủy Quảng Ninh về việc hoàn thiện cơ chế khoán sản
phẩm trong nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp có bước phát triển mới, sản lượng lương
thực năm 1989 - 1990 đạt 4.064 tấn, vượt 714 tấn so với năm 1987 - 1988, an ninh lương
thực cơ bản được đảm bảo, bình quân lương thực đạt 450 kg/người/năm. Để tiếp tục phát
triển nông nghiệp, xã Sông Khoai đã mở những lớp học cho nông dân tiếp thu tiến bộ
khoa học kỹ thuật trong thâm canh, phòng trừ sâu bệnh; chuyển giao một số giống lúa
mới, chuyển đổi mùa vụ... Nhờ đó, điều kiện thâm canh, hệ số quay vòng đất ngày một
tốt hơn. Sản lượng lương thực tăng từ 6.100 tấn/năm (giai đoạn 1996 - 2000) lên 8.220
tấn/năm (giai đoạn 2005 - 2010). Từ năm 2011 - 2023, xã Sông Khoai phát triển nông
nghiệp theo hướng sản xuất lúa đặc sản có giá trị kinh tế cao, thực hiện dồn điền, đổi
thửa, xây dựng cánh đồng mẫu lớn, nhân rộng mô hình cánh đồng sản xuất đạt giá trị
trên 100 triệu đồng/ha, đồng thời xây dựng thương hiệu sản phẩm OCOP “Gạo chất
lượng Sông Khoai”. Với việc áp dụng khoa học kỹ thuật và đưa các giống cây trồng cho
năng suất cao vào sản xuất, năng suất lúa tăng từ 59,8 tạ/ha (giai đoạn 2015 - 2020) lên
62,2 tạ/ha (năm 2023), giá trị sản xuất ngành trồng trọt đạt 14,8 tỷ đồng (năm 2023).
Chăn nuôi tiếp tục phát triển. Xã chủ trương đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật,
chọn giống có năng suất và chất lượng cao, đồng thời tăng cường chỉ đạo việc mở rộng
tập huấn cho nông dân. Từ năm 2000 - 2005, ngành chăn nuôi đạt tốc độ tăng trưởng
bình quân 14,8%/năm, chiếm 29% trong giá trị sản xuất nông nghiệp. Những năm gần đây,
(1) Theo Ban Chấp hành Đảng bộ xã Sông Khoai: Lịch sử Đảng bộ xã Sông Khoai (1984 - 2020),
sđd, tr.37.