Page 245 - cea5e377cf074960b98d88a2154294d3_1_tmp
P. 245
Lê Đình Cai * CHIẾN TRANH QUỐC CỘNG TẠI VIỆT NAM 1954-1975
- Chững lại 33% 38%
- Tiến Bộ 50% 33%
- Không ý kiến 9% 6%
(Thống kê này được dẫn lại trong Robert F. Turner,
"Vietnamese Communism", sđd, tr. 254)
Theo thống kê trên đây, người đọc dễ nhận ra rằng công luận
Mỹ cho rằng Hoa Kỳ đang thua cuộc chiến nay đã tăng từ 8% lên
đến 23% nghĩa là gấp 3 lần; số người cho rằng đang tiến bộ từ 50%
xuống còn 33%, có nghĩa rằng công chúng Mỹ đa số bi quan về
cuộc chiến Việt Nam sau vụ tổng công kích Mậu Thân. Điều này
có lợi cho phe CSBV trong cuộc hòa đàm ở Ba Lê rất nhiều.
- Tổng thống Johnson buộc phải xuống thang chiến tranh:
Trước dư luận ngày càng bất lợi về cuộc chiến tranh mà TT
Johnson đang đeo đuổi tại Việt Nam nhất là phong trào phản chiến
ngày càng lên cao. TT Johnson buộc phải thay đổi sách lược. Kể từ
ngày 1-3-1968, ông Clark M. Clifford thay McNamara làm tổng
trưởng Quốc Phòng. Ba ngày sau, nhóm ông Clifford đã đưa lên
Tổng thống một bản phúc trình với hai giải pháp đề nghị
- Quân đội Mỹ rút về đóng ở các vùng ven biển đông dân cư.
- Buộc chính phủ Nam Việt phải hoạt động mạnh hơn chống
Việt Cộng.
Rồi hôm sau, ngoại trưởng Dean Rusk đề nghị Tổng thống nên
tuyên bố ngưng oanh tạc miền Bắc vô điều kiện (5-3-68).
Ngày 22-3, thống tướng Westmoreland được triệu hồi về Hoa
Thịnh Đốn và được cử lên làm Tham mưu trưởng Quân lực Hoa
Kỳ và tướng phụ tá của ông là Creighton W. Abrams được cử thay
thế.
Ngày 31-3-1968, TT Johnson đọc bài diễn văn quan trọng trên
vô tuyến truyền hình toàn quốc vào hồi 8 giờ tối (tức là 8 giờ sáng
ngày 1-4-68 ở Sài Gòn) gồm những điểm chính sau đây:
- Đối với Chính phủ VNDCCH tức CSBV: Đơn phương giảm
thiểu oanh tạc Bắc Việt: Ông Johnson tuyên bố:
"Chiều hôm nay, tôi ra lệnh cho những phi cơ và chiến thuyền
của chúng ta rằng phải ngưng tấn công miền Bắc Việt Nam, ngoại
trừ vùng đất nằm ở phiá Bắc khu phi chiến là nơi mà những cuộc
244