Page 37 - Ban ky yeu IN
P. 37

CẢM TẠ MÁI TRƯỜNG XƯA  NHỚ VỀ BẤT BẠT   NHÌN LẠI NGÔI TRƯỜNG SAU 50 NĂM TUỔI
 Tôi lang thang giữa cuộc đời thầm lặng  Mái trường Bất Bạt thân yêu   Thầy Vũ Minh Sơn – Nguyên Hiệu trưởng nhà trường
 Để một lần nhớ lại mái trường xưa   Ở ngôi trường ấy có nhiều bạn thân
 Lời cô dạy ngày xưa vàng hoe nắng  Học sinh  năm  xã xa gần      Tôi từ bộ đội chống pháp trở về. Sau ngày hòa bình, tôi vào đại học sư phạm. Năm 1966, tôi
 Có cánh cò sải cánh giữa trang văn  Sông Đà Núi Tản  tụ quần nơi đây   tốt nghiệp ra trường đúng thời điểm Mỹ ném bom bắn phá miềm Bắc ác liệt. Tôi được phân về dạy
 Có  con thuyền in mình trên dòng sông xanh thẳm   Xa rồi nhớ những phút giây   ở trường cấp 3 Bất Bạt, ở xã Thuần Mĩ. Tôi cầm quyết định về đúng xã hỏi thăm đến trường cấp 3, ai
 Thoáng quên mất giữa tháng ngày ngọt đắng   Công ơn giảng dạy bao ngày của cô  cũng trả lời tôi không có, tìm khắp xã chẳng thấy có trường cấp 3. Tôi nghĩ rằng tổ chức ty giáo dục
 Trưởng thành này có bóng dáng hôm qua   Nghe  đâu văng vẳng câu thơ  có thể ghi nhầm xã, suốt ngày tôi đi xe đạp tìm trong huyện Bất Bạt cũng chẳng thấy ngôi trường
 Lời thầy dạy như ngỡ mới vừa xa  Những lời cô dạy đến giờ chưa quên  nào. Sau đó tôi phải quay về ty giáo dục, hỏi lại mới biết là trường cấp 3 Bất Bạt mới có quyết định
 Bụi phấn còn rơi trên bậc thềm cửa lớp  Giọng thầy ấm áp thật hiền  thành lập năm 1965 đặt nhờ trong dân, cơ sở vật chất chưa có gì.
 Bất Bạt ơi ta nhớ những ngày xưa!  Bao nhiêu bạn mến bên tôi tháng ngày
 Bậc thềm nào dìu dắt những ước mơ  Phượng hồng rực cháy trên cây      Rồi một ngày tôi cũng tìm đến trường, đến gặp thầy hiệu trưởng Phùng Văn Cừ ở nhờ trong
 Bài học đầu tiên có những gì liệu ai còn nhớ  Râm ran ve gọi những ngày ôn thi  một nhà dân. Tôi đưa quyết định của ty giáo dục Hà Tây phân tôi về dạy bộ môn hóa. Thầy hiệu
 Có nhắc bóng người đương thời năm cũ   Bồi hồi những phút chia li   trưởng nói với tôi, trường này mới thành lập chỉ có tên trường là cấp 3 Bất Bạt, cơ sở vật chất còn
 Con đò nào chở bao điều ấp ủ  Cầm tay nhau biết nói gì bạn ơi ?   thiếu thốn, tài sản của trường hiện nay duy nhất chỉ có một bộ sách giáo khoa gồm có: Văn, Toán,
 Mang đến cho đời những khát vọng đam mê   Dù xa đi khắp phương trời   Lí, Hóa , Sinh và Chính trị. Trường chỉ có 5 thầy giáo  thuộc các môn. Thầy hiệu trưởng dạy môn
 Đón tôi về Bất Bạt là một dải đê  Lòng tôi vẫn nhớ tới thời học sinh  chính trị. Lúc bấy giờ trường chỉ có 2 lớp học sinh mới vào học lớp 8. Trường chuẩn bị khai giảng
 Rặng tre già xòe bàn tay gân guốc   Nhớ sao dưới mái trường mình  năm học thứ 2, lớp học nhờ vào phòng học trường cấp I ở thôn Bảng Trung xã Thuần Mĩ, còn giáo
 Cho tôi nói lời tạ ơn mái trường nuôi tôi lớn   Ngôi trường Bất Bạt thắm tình thân thương.  viên thì  ăn ở nhờ trong nhà dân. Năm học 1966- 1967 trường làm được 4 phòng học bằng tranh
 Để xin một phút tĩnh tâm giữa muôn điều hời hợt   tre đặt nhờ trong vườn nhà dân. Hết học kì I thầy hiệu trưởng Phùng Văn Cừ chuyển về phòng giáo
 Cảm tạ mái trường, cảm tạ nghĩa thầy cô   Trần Văn Đông  dục, thầy Vũ Minh Sơn tạm quyền hiệu trưởng, thầy Phùng Quang Tiến về dạy bộ môn hóa. Năm
 Giáo viên trường THPT Bất Bạt
 Dương Minh Thịnh – Lớp A1K44  học 1967- 1968 trường đã có 6 lớp thuộc 3 khối 8,9,10, học sơ tán trong 2 thôn trung tâm trường
 (SV Trường KHXH&NV Hà Nội)  chuyển sang thôn Thạch Xá. Hàng ngày máy bay Mĩ luôn ném bom bắn phá khắp nơi miền Bắc, có
            lần bom Mĩ nổ chỉ cách trường 1 km, việc dạy và học nhiều khi bị ngắt quãng vì máy bay Mĩ đến.
            Năm 1968 trường có 2 lớp 10 đầu tiên khi tốt nghiệp, tỷ lệ đỗ vào diện trung bình trong tỉnh. Từ
 TÂM SỰ NGHỀ NGHIỆP
 Hôm nay chạy xe trên đường phố  năm 1968 – 1970, trường có tiếp nhận một số học sinh con cán bộ trung ương chuyển đến học.
 Ngỡ ngàng, tôi gặp cô giáo xưa  Năm 1968 khi chiến tranh trở nên ác liệt hơn, trường vẫn đảm bảo chất lượng dạy học. Trong năm
 Cô trò mừng vui và thổ lộ  học này Tổng Bí thư Lê Duẩn đến thăm, sự hiện diện này đã khích lệ cho thầy và trò càng quyết
 Biết bao suy ngẫm về chọn nghề.  tâm chịu đựng gian khổ khắc phục khó khăn quyết tâm dạy và học tốt hơn.
 Đất nước mình ở đâu cũng thế :
 Làm thơ, dạy học khó như nhau,     Năm 1971 trường di chuyển địa điểm đến xã Sơn Đà ở phía trong đê để chuẩn bị vào năm
 Cái đói, cái nghèo đè lên cổ  học mới 1971-1972. Ba tháng hè cả thầy và trò liên tục lao động, vận chuyển tranh tre làm lớp học
 Giống nhau cả những nỗi niềm đau.  nơi mới, làm được 2 dãy nhà tranh với 6 phòng học. Vừa làm xong đang kê bàn ghế thì mưa lũ nước
 Tại cô lỡ chọn nghề dạy học  Sông Đà cuốn trôi hầu hết bàn ghế, nhà mới làm sụp đổ cả. Thầy trò lại phải tập trung lao động
 Còn em lỡ thích nghiệp làm thơ  khẩn trương làm lớp học để kịp vào năm học mới. Năm học 1971-1972 trường có 7 lớp ( 2 lớp 19,
 Dạy học- học trò không thèm học,  2 lớp 9, 3 lớp 8). Từ năm 1967 đến năm 1975 năm nào trường cũng tuyển vào 3 lớp 8 nhưng không
 Làm thơ- thiên hạ chẳng cần thơ.  năm nào có đủ số học sinh 3 lớp 10 thi tốt nghiệp. Vì nhiều học sinh đi bộ đội ra trận nên lớp 9 lớp
            10 phải dồn lại, giáo viên luôn thay đổi và thiếu, những năm đầu có giáo viên phải dạy 2 môn, giáo
 Thôi, chẳng đổ thừa chi cho mệt  viên các bộ môn đều phải dạy vượt quá giờ tối đa.
 Lỗi này không phải của cuộc đời
 Tội này cũng chẳng do ai cả     Từ năm 1965 đến năm 1970, trường chỉ một quyền hiệu trưởng, không có hiệu phó.Từ năm
 Mà chỉ tại cô và em thôi !  1966 đến năm 1994 không có sự thay đổi hiệu trưởng, thầy Vũ Minh Sơn liên tục hiệu trưởng ở
            một trường 29 năm liền. Trong những năm này có 2 lần ty giáo dục cử về hiệu trưởng Đặng Huy
 Duy Trọng, cựu học sinh K27  Thông và Ngô Ngọc Thiều mỗi thầy đều ở trường một học kì rồi lại chuyển đi. Giáo viên hàng năm
            thay đổi liên tục, không có giáo viên nào dạy hết một khóa học sinh. Hầu hết các hiệu phó ở trường
            một thời gian là chuyển đi lên cấp phó chủ tịch Huyện, trưởng phòng giáo dục, hiệu trưởng cấp
            III…Sau năm 1994 thầy Vũ Minh Sơn về nghỉ hưu, nối tiếp công tác quản lí nhà trường là các giáo
            viên ở trường và học sinh cũ sau khi tốt nghiệp đại học sư phạm trở về trường công tác. dạy học
            lên làm hiệu trưởng, hiệu phó cho đến nay. Trong 10 năm dạy học của thời chiến tranh, nhà trường
            đã đào tạo được 7 khóa học sinh ra trường  và là một trong những trường đào tạo học sinh ra có



   36                                                                                                         37
   32   33   34   35   36   37   38   39   40   41   42