Page 63 - Ky yeu Hoi thao khoa hoc Con duong... (21x29)
P. 63
Con ñöôøng xuaát döông cuûa ñoàng chí Traàn Phuù qua ñòa baøn thaønh phoá Moùng Caùi .63
nên các thành viên phải luôn luôn cảnh giác, đề phòng bị theo dõi, khám xét; khi đi lại,
ăn ở đều phải phân tán, có dấu hiệu liên lạc riêng với nhau. Ngày 14/7, đoàn nghỉ lại
khách sạn Nam Lai. Sáng 15/7, đoàn đi xe lửa xuống Hải Phòng, lưu lại khách sạn Việt
Nam Lâu ở phố Hàng Cháo khoảng 2 ngày, chờ tàu thủy. Chiều ngày 16/7, mọi người
xuống tàu “Eemơrốt”. Sáng ngày 17/7, tàu tới Mũi Ngọc. Đến Mũi Ngọc, qua cửa kiểm
soát của cảnh sát Tây cả đoàn đều khai đi du lịch. Quãng đường từ Mũi Ngọc đến Móng
Cái dài 15 cây số, trời nắng, không có một bóng cây để nghỉ, ai nấy đều mệt. Trần Phú,
Tôn Quang Phiệt, Phan Trọng Bình bị tụt lại sau. Ba người tìm vào một xóm nhỏ bên
đường để xin nước uống và được đồng bào Hán ở đây đem nước cháo cho uống. Đoàn tiếp
tục cuộc hành trình và rẽ vào con đường nhỏ, đi chừng 2 cây số thì đến xóm Pồ Hển (nay
là Khu 6, phường Hải Hòa, Móng Cái). Do quên đường ra biên giới, nên mọi người phải
ngồi chờ để Lê Duy Điếm đi dò đường. Giữa lúc đó có một người ăn mặc quần áo cựu binh
đến hỏi chuyện một cách tò mò rồi bỏ đi một cách khả nghi, Trần Phú liền hội ý với đoàn,
chuẩn bị kế hoạch đối phó khi có chuyện không may xảy ra. Mọi người đều đồng ý không
ngồi đợi nữa, cứ theo phương Bắc mà tìm đường ra biên giới và nếu bị địch đuổi thì phải
quẳng hết cặp, vali để chạy cho dễ. Đoàn vừa ra khỏi xóm Pồ Hển thì Lê Duy Điếm quay
trở lại và cho biết đã tìm ra đường đi. Đi được một quãng, bất ngờ gặp một toán lính từ
đằng xa đang chạy lại. Mọi người bèn quẳng hết cặp và vali để chạy thoát thân, qua một
cánh đồng và mấy ngọn đồi, qua đồi Phổ Xíu Lẻng (nay là đồi Trần Phú thuộc phường
Hải Hòa) thì đến bờ sông Bắc Luân, vội nhảy ào xuống nước, bơi sang bờ bên kia là đất
Trung Quốc. Đến giữa dòng sông Bắc Luân ở bến đò Nà Sáo Tù (dưới chân đồi Trần Phú
thuộc phường Hải Hòa) gặp thuyền là cơ sở của ta (anh Đỗ Đức Nghiệp năm đó 21 thuổi,
là con trai cả ông Đỗ Phát Khang, tức ông Cộc) từ bờ Bắc sông Bắc Luân kịp ra đón. Và
chiếc đò đã đưa 8 người trong đoàn vượt qua biên giới. Sang đến bờ sông bên kia, quay
nhìn về Tổ quốc thì thấy Tôn Quang Phiệt và Hoàng Văn Tùng đã bị lính Tây bắt. Như
vậy, Trần Phú cùng cả đoàn đã vượt qua biên giới và thoát hiểm, lúc đó vào khoảng 5 giờ
chiều ngày 17/7/1926. Đoàn đại biểu 3 người của Việt Nam Cách mạng Đảng, chỉ có một
mình Trần Phú đi thoát.
Bên bờ Bắc sông Bắc Luân, chủ nhân ngôi nhà tranh nhỏ, nơi làm trạm liên lạc của
Tổng bộ là gia đình ông Đỗ Phát Khang (tức ông Cộc), một người Việt yêu nước, quê
Móng Cái đã tham gia Việt Nam Quang phục Hội và Việt Nam Quang Phục quân
(1)
(2)
của cụ Phan Bội Châu. Từ năm 1923, ông đã được giao phụ trách cửa ngõ liên lạc với
trong nước ở Đông Hưng. Sau khi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên thành lập,
Tổng bộ vẫn sử dụng trạm liên lạc này. Ông Đỗ Phát Khang (tức Cộc) cùng gia đình
dựng một ngôi nhà tranh nhỏ ở bến đò Nà Sáo Tù bên bờ Bắc sông Bắc Luân (thuộc đất
(1) Việt Nam Quang phục Hội (chữ Hán: 越南光復會) là một tổ chức cách mạng thành lập năm 1912 do
Phan Bội Châu đề xướng theo chủ nghĩa dân chủ với mục đích đánh đuổi người Pháp khỏi Đông Dương.
Tôn chỉ của tổ chức này là: Khôi phục Việt Nam, kiến lập Việt Nam Dân quốc.
(2) Quang Phục quân (chữ Hán: 光復軍), là tên gọi lực lượng vũ trang của Việt Nam Quang phục Hội, được
thành lập sau vụ ném tạc đạn khủng bố vào năm 1913. Hoạt động chủ yếu ở khu vực biên giới Việt - Hoa,
đến năm 1940. Quang Phục quân có sách nội quy với tên Quang Phục quân Phương lược hơn 100 trang
do Phan Bội Châu và Hoàng Trọng Mậu soạn.