Page 29 - 4. Giao an, de cuong bai giang
P. 29
phạm tội khác nhau, nhưng họ 2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được
đều bị truy tố về cùng một tội quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu TNHS”.
danh. Do đồng phạm là một hình thức phạm tội đặc biệt nên cơ
sở chịu TNHS trong đồng phạm dựa trên cơ sở chịu TNHS
của tội phạm nói chung. Vì vậy, cơ sở pháp lý của trách
nhiệm hình sự trong đồng phạm không chỉ là cấu thành tội
phạm cụ thể mà còn bao gồm cả điều luật trong phần chung
quy định về đồng phạm.
Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy, việc xác định trách
nhiệm hình sự của những người đồng phạm không những
tuân thủ những nguyên tắc được áp dụng cho tất cả những
trường hợp phạm tội nói chung mà còn phải tuân thủ những
nguyên tắc có tính đặc thù áp dụng TNHS trong đồng phạm.
Sau đây, chúng ta sẽ đi tìm hiểu về các nguyên tắc xác định
TNHS của những người đồng phạm.
2. Nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự trong
đồng phạm
- Về Nguyên tắc chung, đây là nguyên tắc áp dụng chung
cho tất cả tội phạm, bao gồm cả trường hợp đồng phạm.
Điều 50 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy
định căn cứ quyết định hình phạt, theo đó:
“Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định
của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội,
các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”.
Khi quyết định hình phạt, tòa án phải căn cứ vào các quy
định của BLHS để lựa chọn và xác định mức hình phạt cụ
thể áp dụng đối với người phạm tội. Các quy định này bao
gồm: các quy định trong phần chung của BLHS; các quy
định trong phần các tội phạm cụ thể của BLHS. Ngoài ra, tòa
án cũng phải cân nhắc, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội,
25