Page 391 - KyYeu100Nam
P. 391
hùng của hầu hết người dân ở vùng này khi giúp cứu nhiều người thoát chết, tù tội trong hoàn
cảnh chiến tranh. Thật vậy, trong những năm 1942-1950, người dân ở vùng này thường bị
Tây (lính Pháp) bố ráp, bắt người đánh đập, giam cầm, có khi bị bắn tại chỗ do họ nghi là Việt
Minh. Thân nhân kêu cứu, khóc la chạy tới nhờ O giúp đỡ xin tha, vì O rành tiếng Pháp. Lập
tức O bôn ba chạy tìm ông Cai, ông Đội của Tây tận đồn Thừa Lưu để xin. O không quản ngại
gian khổ, không lo lắng về sức khỏe, về nguy hiểm giữa lúc đêm hôm. Một tay O cầm đuốc
bằng cây tre lồ ô vượt đường dài 6, 7 km với đôi chân trần đi bộ, không một phương tiện xe
cộ, thế mà O không từ nan, bất chấp hiểm nguy. Và đã có rất nhiều người được cứu sống nhờ
tấm lòng yêu thương của O. Những người lớn tuổi còn sống tại vùng Nước Ngọt, Thừa Lưu vẫn
còn nhớ như in rằng mỗi lần Tây đổ bộ về làng, thì mạnh ai nấy chạy trốn vào núi rừng, những
ai không chạy kịp thì về nhà O. Những đồ vật có giá trị, kể cả gia phả, khế ước, trích lục... lúa
gạo đều đem vào nhà O gởi. O đem đậu xanh, đậu đỏ... đổ chung lại, để bà con ngồi nhặt, tạo
ra việc làm cho họ. Có những người khác thì cầm cuốc làm vườn, kẻ thì xắt chuối cho heo...
Tây vào thì O nói là con cô nhi viện của dòng. Nhờ thế, O cứu được nhiều người. Lòng thương
người của O không phân biệt ai bạn, ai thù, O chỉ nhắm mục đích cứu người. Vì thế, O cũng đã
băng bó vết thương cho các chiến sĩ Việt Minh nằm vùng. Cuộc chiến Mậu Thân 1968, O cũng
không ngại ngần cứu sống một vài lính bộ binh của Mỹ. Điều này đã khắc ghi vào lòng của một
trong những người lính này, nên khoảng thập niên 80, ông đã trở lại tìm gặp O tại cộng đoàn
Thừa Lưu. Khi O về Hưu dưỡng tại Nhà Mẹ, ông còn trở lại thăm O một lần nữa.
Ngày nay, thế hệ các nữ tu trẻ của dòng đến vùng Nước Ngọt, Thừa Lưu, Đập phục vụ vẫn
thường nghe người lớn tuổi ở đây kể về O Benoîte. Về công ơn dạy bảo, về tấm gương quên
mình phục vụ, nhất là tấm lòng thương dân nghèo nơi O.
Về đời sống cá nhân, O luôn sống khó nghèo. Của ăn áo mặc, vật dụng trong sự tiết kiệm và
đơn sơ. O luôn mặc quần áo vải thô, chằm vá, không hề có loại vải xoa. Ai cho gì thì đón nhận
với niềm biết ơn vui vẻ. Thức ăn của O chỉ là một tô cháo trắng, không cao lương mỹ vị, không
đòi hỏi kiểu cách.
“Một đời sống hăng say phục vụ như thế nhưng đến khi về hưu dưỡng tại nhà Mẹ, O vẫn sống
trọn vẹn đời sống hiến dâng, O luôn nở nụ cười trên môi, nét mặt an bình, dẫu bên trong vẫn
còn đầy những khó nhọc, những suy nghĩ và ngay cả những bệnh tật sắp đến trong lúc tuổi
già. O sống tinh thần cộng đoàn rất cao độ: yêu thương xây dựng, nghe cộng đoàn nào có khó
khăn là O theo dõi cầu nguyện, hỏi han. O khích lệ, an ủi chị em can đảm nhận việc phục vụ
Hội Dòng khi Bề Trên hay Thánh Ý Chúa cắt đặt cho. Không bao giờ O nói xấu ai; những chị
em gần gũi luôn cảm thấy nhẹ nhàng, an vui. O lưu tâm theo dõi các em nhỏ trong việc học
hành thi cử, thành công và thất bại. O chuyện trò khích lệ trao đổi… O sống hòa đồng với tất
cả mọi người”. (x. Cố Phương và O Uyển tại giáo Xứ Nước Ngọt, Phêrô Nguyễn Bính và Giuse
Nguyễn Hữu Tâm Lớp Thần I Giáo Phận Huế.tr 13)
Chị quý mến, chị là một ngọn đèn luôn cháy sáng. Cám ơn chị đã sống trọn vẹn Ơn gọi Con
Đức Mẹ Vô Nhiễm, để lại cho đoàn em một chứng tá sáng ngời về một đời sống dâng hiến
hạnh phúc, hết mình phục vụ. 100 năm của Hội Dòng đã tới, chị ơi! Trong dòng chảy đó giữa
đoàn con đông đảo của Mẹ Vô Nhiễm đã về bên Chúa, hay còn đang trên đường lữ thứ trần
gian, chị vẫn là một ngọn đèn cháy sáng trong lòng em, trong lòng chị em và trong lòng mọi
người.
PHẦN VI - 100 NĂM CẤT LỜI NGỢI KHEN 391