Page 202 - LSDB xa Xuan Ngoc
P. 202
đã đổi mới được cơ chế quản lý, nhưng quan hệ sản xuất
trong nông nghiệp chưa có sự đổi mới căn bản. Những tồn
tại, vướng mắc trong quá trình thực hiện Khoán 100 chưa
được uốn nắn và giải quyết kịp thời. Mọi chi phí đóng góp
với Nhà nước hầu như người nông dân đều phải gánh chịu,
một số hợp tác xã không hoàn thành chỉ tiêu nghĩa vụ, quỹ
vốn hợp tác xã tăng chậm, một số thiếu hụt, nợ nần nghiêm
trọng. Công tác quản lý tiền vốn, vật tư của tập thể chưa
chặt chẽ, cán bộ quản lý hợp tác xã còn thiếu trách nhiệm
gây lãng phí, tình trạng bao cấp còn diễn ra tràn lan. Việc
cung ứng dịch vụ của Nhà nước đối với nông dân chưa đầy
đủ, thiếu kịp thời dẫn đến tình trạng phiền hà, cửa quyền. Cơ
chế chính sách đối với nông nghiệp và người nông dân chưa
phù hợp, tình trạng khê đọng sản phẩm tăng dần. Phương
hướng sản xuất chưa xác định được hợp tác xã nông nghiệp
là một đơn vị sản xuất - kinh doanh nên chưa chủ động trong
sản xuất, dẫn đến tình trạng các hợp tác xã dậm chân tại
chỗ. Những nguyên nhân trên đã hạn chế tinh thần làm chủ
của người lao động, nông dân không gắn bó với đồng ruộng,
không tích cực sản xuất.
Trước thực trạng chung của cả nước, ngày 05/4/1988, Bộ
Chính trị ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW “về đổi mới
quản lý kinh tế nông nghiệp” (gọi tắt là Khoán 10 hay “Khoán
hộ”). Nghị quyết đã cụ thể hóa đường lối đổi mới của Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng và xác định rõ những
quan điểm cơ bản của Đảng về cách mạng xã hội chủ nghĩa,
coi nông thôn là địa bàn trọng yếu trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, xác định
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu trong những năm tiếp
theo. Nghị quyết đề ra những nội dung đổi mới toàn diện
202

