Page 207 - LSDB xa Xuan Ngoc
P. 207
Sau khi chuyển hẳn sang chăn nuôi gia đình, đàn lợn
duy trì từ 1.200 - 1.600 con; trong đó, đàn lợn nái tăng
nhanh, cung cấp đủ nhu cầu giống cho các hộ xã viên và các
khu vực lân cận. Công tác tiêm phòng cho đàn gia súc, gia
cầm được duy trì định kỳ nên nhiều năm liền không xuất
hiện dịch bệnh trên địa bàn xã. Do giá lợn thấp, vốn đầu
tư nhiều, trọng lượng lợn xuất chuồng thấp, bình quân chỉ
đạt 50 - 60 kg/con nên chưa khuyến khích được ngành chăn
nuôi phát triển.
Trong 3 năm (1988 - 1990), hợp tác xã đã giao nộp cho Nhà
nước 461,380 tấn thóc thuế nông nghiệp; 60 tấn thóc thủy lợi
phí; 27.000 ngày công nghĩa vụ. Việc thực hiện nghĩa vụ diễn
ra nhanh gọn, không có nợ mới, nợ cũ đã trả gần hết. Hợp
tác xã thực hiện chế độ hạch toán công khai, nguồn vốn quỹ
tăng lên và được sử dụng đúng mục đích, đảm bảo các khâu
điều hành sản xuất, xây dựng các công trình cơ bản phục vụ
sản xuất và đời sống nhân dân. Đến cuối năm 1990, tài sản
cố định của hợp tác xã (trong đó có cơ sở vật chất - kỹ thuật,
tiền vốn và kho thóc) còn khoảng 1,1 tỷ đồng.
Từ năm 1988, do áp dụng cơ chế tự hạch toán kinh doanh,
hoạt động của Hợp tác xã mua bán gặp nhiều khó khăn vì
không có vốn, hàng hóa tràn ngập thị trường, cán bộ quản
lý chưa có nhiều kinh nghiệm và kiến thức. Đảng ủy quyết
định trả lại 412.072 đồng tiền vốn cổ phần cho xã viên, Hợp
tác xã mua bán chuyển hướng sang làm đại lý cho cửa hàng
mậu dịch quốc doanh, nhận hàng về bán cho xã viên. Năm
1989, Hợp tác xã tín dụng kiểm kê nguồn tín dụng dài hạn
và ngắn hạn, bàn giao cho ngân hàng quản lý (cả nguồn vốn
và con người).
207

