Page 244 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 244

228                                   Cẩm Phả - Đất và Người


             hình hiện vật phát hiện  ở Tấn Mài, có ý kiến cho rằng
             người nguyên thủy Tấn Mài đã biết chọn những viên cuội
             có hình dáng thích hợp  để chế tác thành các loại hình
             công cụ lao động khác nhau, dù rằng kỹ thuật chế tác đá

                                                                                1
             vẫn còn ở trình độ quá thô sơ bằng phương pháp ghè đẽo .
             Tuy nhiên, các ý kiến nhận định về công cụ đá phát hiện
             tại di tích Tấn Mài cho  đến nay vẫn chưa  được thống
             nhất. Vì vậy, thời kỳ tiền sử ở Quảng Ninh được biết đến

             sớm nhất và khẳng  định rõ ràng hơn là các di chỉ thuộc
             Văn hóa Soi Nhụ.
                 Quảng Ninh có địa hình đa dạng, phức tạp. Các dải đồi

             núi chạy dọc ven biển có khả năng là địa bàn sinh sống của
             người tiền sử. Hệ thống hang núi đá vôi và các đượng cát ven
             biển có độ cao từ 2 - 4 m có tuổi Toàn tân (Holocene), cách

             ngày nay khoảng 5.000 năm, là địa điểm rất thích hợp cho
             người tiền sử cư trú. Theo các nhà địa chất, khoảng 18.000 năm

             về trước, khi đợt băng hà lần cuối cùng (Wurm) phát triển,
             nước Biển Đông đã hạ thấp tới độ sâu 110 - 120 m dưới mực
             nước biển hiện tại. Vì thế, vịnh Hạ Long khi đó là một đồng

             bằng cổ rộng lớn. Khi băng tan vào thời kỳ biển tiến
             Flandrian (cách ngày nay 17.000 năm), nước biển dâng tới độ

             sâu 50 - 60 m so với mực nước biển hiện tại.  Đến khoảng
             8.000 năm trước, mực nước biển dâng đến ở độ sâu 25 - 70 m.
             Khi vùng đất Quảng Ninh còn là vùng đồng bằng cổ, ở đây đã

             tồn tại một cộng  đồng cư dân tiền sử sống trong các hang
             động đá vôi. Lớp cư dân tiền sử ở Quảng Ninh đã sáng tạo ra

             _______________

                 1. Xem Hà Hữu Nga, Nguyễn Văn Hảo: Hạ Long thời tiền sử, Sđd, tr.41.
   239   240   241   242   243   244   245   246   247   248   249