Page 277 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 277
Phần thứ hai: LỊCH SỬ 261
Năm 1009, nhà Lý thay thế nhà Tiền Lê, bắt đầu một giai
đoạn phát triển lâu dài trong lịch sử dân tộc. Năm 1010, Lý
Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư về Đại La, đổi tên Đại
La thành Thăng Long. Sự ra đời của nhà Lý (1009 - 1225) và
định đô ở Thăng Long đánh dấu một giai đoạn phát triển mới
trong lịch sử dân tộc.
Nhà Lý tiến hành xây dựng một chính quyền quân chủ
tập trung với nhiều nét đặc sắc. Thư tịch cổ ghi chép rằng,
Lý Công Uẩn chia cả nước thành 24 lộ. Tuy nhiên, cả Đại
Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương
mục chỉ chép tên 12 lộ thời Lý, gồm: Thiên Trường, Quốc Oai,
Hải Đông, Kiến Xương, Khoái, Hoàng Giang, Long Hưng,
Bắc Giang, Trường Yên, Hồng, Thanh Hóa, Diễn Châu. Cùng
với đơn vị lộ, các phủ cũng xuất hiện trong ghi chép của sử
liệu, như phủ Thiên Đức (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh), phủ
Trường Yên (Ninh Bình), Ứng Thiên (Hà Nội), Nghệ An
(Nghệ An), Thanh Hóa (Thanh Hóa) ... Ngoài ra, các đơn vị
1
hành chính khác như châu, trại cũng phổ biến dưới thời Lý.
Dưới cấp lộ, phủ, châu, trại là giáp, hương, huyện.
Chính quyền nhà nước thời Lý coi trọng Phật giáo và
thân dân. Tầng lớp hoàng tộc, quan lại triều đình có mối
quan hệ gần gũi với dân chúng. Quân đội nhà Lý chia thành
nhiều thứ quân: Tại kinh thành có cấm quân (Thiên tử quân)
để bảo vệ vua và triều đình; tại địa phương có lộ quân hay
sương quân lấy nguồn từ nam thanh niên tại các lộ, phủ; tại
các làng xã có dân binh, hương binh. Quốc hiệu Đại Việt ra
đời dưới thời vua Lý Thánh Tông (năm 1054). Trong hơn
_______________
1. Xem Phạm Đức Anh: Mô hình tổ chức nhà nước ở Việt Nam (thế kỷ
X - XIX), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2023, tr.36.

