Page 487 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 487
Phần thứ hai: LỊCH SỬ 455
Khi mới tiếp quản, công tác khai thác tại các mỏ than gặp
nhiều khó khăn. Thực dân Pháp khai thác tài nguyên ở các
mỏ lộ thiên gần cạn kiệt, độ dốc tầng dựng đứng. Mỏ Cọc Sáu
đang ở thời kỳ khai thác thủ công các lộ vỉa. Mỏ Đèo Nai có
mức độ cơ giới nhất định, tuy nhiên các vỉa than thuộc khu
vực Đèo Nai, Lộ Trí bị bóc theo kiểu hàm ếch nham nhở. Khi
rút khỏi các mỏ, chủ tư bản Pháp đã mang đi hầu hết các
máy xúc, máy khoan. Chỉ còn một vài máy khoan ty kéo
thừng và máy xúc có dung tích gầu xúc 1 m và 2,7 m tại mỏ
3
3
Cọc Sáu . Hệ thống đường trục số 2 - đường trục lớn nhất của
1
mỏ Cẩm Phả để vận chuyển than, đang dừng hoạt động.
Không những vậy, tại khu mỏ, tình trạng thiếu cán bộ kỹ
thuật, thiếu phương tiện vận chuyển than, thiếu công nhân
sản xuất đã diễn ra.
Để đảm bảo hoạt động của các mỏ than, tại các xí nghiệp
quốc doanh, ngành than ban đầu vẫn sử dụng các kỹ sư,
chuyên gia người Pháp quản lý xí nghiệp, sử dụng chế độ chủ
thầu, sau đó mới dần thay thế bằng các chuyên gia người
Việt. Đến cuối năm 1955, ta đã thay thế hoàn toàn chế độ
quản lý cũ bằng chế độ giám đốc hoặc các ban quản trị,
chuyên gia người Pháp thôi không làm việc . Đến lúc này,
2
khu công nghiệp mỏ Cẩm Phả hoàn toàn do công nhân làm
chủ. Tại các công trường Đèo Nai, Cọc Sáu, nhằm nâng cao
điều kiện lao động, sinh hoạt của công nhân, cách trả lương
đã được cải tiến, việc chữa bệnh, chăm lo nhà ở của công
nhân đã có một số thay đổi, thắc mắc của công nhân được
_______________
1, 2. Xem Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh: Địa chí
Quảng Ninh, Sđd, t.2, tr.146, 145-147.

