Page 489 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 489
Phần thứ hai: LỊCH SỬ 457
sản xuất. Cùng với tinh thần thi đua lao động sáng tạo của
công nhân công trường Đèo Nai, công nhân công trường
Cọc Sáu cũng dấy lên phong trào thi đua phá kỷ lục; công
nhân Bến Cửa Ông thi đua phục hồi các thiết bị quan trọng
như đầu điện 105, cầu trục tản than...
Các xí nghiệp dần được trang bị các máy móc, phương
tiện mới phục vụ sản xuất. Cuối năm 1955, đường dây điện
cao thế Đèo Nai - Cọc Sáu được thi công, đảm bảo sản xuất.
Cũng trong thời gian này, Việt Nam đã tiếp nhận nhiều máy
móc từ Liên Xô, Tiệp Khắc hỗ trợ. Đến tháng 10/1958, Công
ty Than Hòn Gai được trang bị hai máy xúc Liên Xô loại K
4,6 m và được lắp đặt tại các công trường Đèo Nai, Cọc Sáu .
1
3
Năm 1960, mỏ Cọc Sáu trở thành mỏ khai thác lộ thiên lớn
nhất ở miền Bắc, được trang bị khối lượng thiết bị đồ sộ và
hiện đại, với 46 máy khoan, 661 ôtô vận tải các loại (tổng
trọng tải 18.995 tấn), 32 máy xúc. Tính riêng máy xúc có
3
dung tích gầu 4,6 m và 5A của công ty than Cẩm Phả là
23 chiếc (Cọc Sáu có 12 chiếc, Đèo Nai có 11 chiếc) .
2
Các mỏ Đèo Nai, Cọc Sáu thực hiện khai thác lộ thiên,
mỏ Thống Nhất (từ những năm 1955 - 1959 được gọi là công
trường Lộ Trí) khai thác hầm lò. Số lượng công nhân tiếp tục
được đào tạo, công nghệ mặc dù còn lạc hậu song dần được
cải tiến. Với nhiều nỗ lực, các mỏ than tại Cẩm Phả, Cửa Ông
_______________
1. Chiếc máy xúc tại Đèo Nai được sử dụng đến năm 1994 mới thanh
lý. Chiếc máy xúc ở mỏ Cọc Sáu do Tổ trưởng Vũ Xuân Thủy trực tiếp lái.
Năm 1962, anh Vũ Xuân Thủy được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh
hùng Lao động.
2. Xem Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh: Địa chí Quảng
Ninh, Sđd, t.2, tr.160.

