Page 486 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 486

454                                   Cẩm Phả - Đất và Người


             Cẩm Phả chờ tàu đi Sài Gòn ở lại làm việc tại khu mỏ. Công
             nhân Cẩm Phả cùng với các lực lượng tích cực thực hiện
             kiểm soát và đấu tranh để các chủ mỏ, chủ nhà máy không
             di chuyển máy móc vào Nam. Tiêu biểu như ngày 24/3/1955,

             Ban kiểm soát máy của Nhà máy Cơ khí Cẩm Phả phát hiện
             chủ xưởng định vận chuyển thêm 3 máy chủ đã yêu cầu họ
             để lại các hòm máy này .
                                        1
                 Sau khi tiếp quản, chính quyền thị xã Cẩm Phả đã nỗ lực

             nhanh chóng khôi phục các cơ sở công nghiệp. Công nghiệp
             than là ngành kinh tế mũi nhọn của  địa phương. Các mỏ
             than ở Cẩm Phả trong thời kỳ Pháp chiếm đóng (trước năm

             1954) thuộc Công ty mỏ than Bắc Kỳ quản lý và khai thác.
             Trước khi lực lượng kháng chiến chưa đến tiếp quản Công ty
             mỏ than Bắc Kỳ, chủ mỏ  đã lấy cớ bàn giao và ngừng sản
             xuất. Ngày 22/4/1955, khi ta vào tiếp quản Cẩm Phả, các mỏ

             than tiếp tục ngừng hoạt  động nhằm gây khó khăn cho ta
             trong việc nắm bắt tình hình tại các mỏ và ép ta ký nhận tài
             sản. Kiên quyết  đấu tranh, lực lượng tiếp quản kiên quyết

             chỉ nhận bàn giao trong tình trạng các xí nghiệp còn hoạt
             động, buộc các mỏ than ở Cẩm Phả - Cửa Ông khôi phục sản
             xuất vào ngày 24/4/1955. Sau gần một tháng giới chủ  điều
             hành quản lý, sau khi tìm hiểu và tiếp quản dần các cơ sở

             sản xuất, nắm bắt quy trình sản xuất, ngày 15/5/1955, ta ký
             nhận tiếp thu toàn bộ cơ sở mỏ ở Cẩm Phả; trong đó, chủ mỏ
             đã phải bàn giao lại mọi tài sản (kể cả những tài sản đã tháo

             dỡ còn nằm ở Hải Phòng, Nam Định...).
             _______________

                 1. Xem Thi Sảnh:  Lịch sử  phong  trào công nhân mỏ Quảng Ninh,
             Sđd, t.2, tr.405.
   481   482   483   484   485   486   487   488   489   490   491