Page 23 - Bao cao Khao sat khao ta di van Han Nom (HTP4-K16 NMHD) 2025
P. 23
Giáo học tương trưởng
VĂN BIA TẠO LỆ - PHỤNG LỆNH CHỈ
Di sản văn khắc Hán Nôm Việt Nam chứa đựng một kho tàng tư liệu đồ sộ, trong đó
có một thể loại văn bia chuyên biệt và mang đậm dấu ấn bản địa: văn bia Tạo lệ. Loại
hình văn bia này không chỉ có giá trị về mặt văn tự, nghệ thuật mà còn là nguồn sử
liệu quý giá, phản ánh sinh động chế độ quản lý di tích của nhà nước quân chủ Việt
Nam, đặc biệt là trong giai đoạn từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. Bài viết này, dựa
trên kết quả nghiên cứu hệ thống từ luận án của Vũ Thị Lan Anh, nhằm giới thiệu
một cách khái quát về văn bia Tạo lệ và phân tích một ví dụ điển hình để làm sáng
tỏ giá trị của nó.
1. Khái niệm và nguồn gốc của “Tạo lệ” và văn bia Tạo lệ
Theo luận án, thuật ngữ “Tạo lệ” (皂隸) vốn xuất phát từ Trung Quốc, dùng để
chỉ tầng lớp người làm công việc phục dịch thấp kém trong các nha môn. Tuy nhiên,
khi du nhập vào Việt Nam, khái niệm này đã có sự chuyển biến về ý nghĩa. Ở nước ta,
“Tạo lệ” dùng để chỉ những người dân được triều đình quân chủ (chủ yếu là vua Lê,
chúa Trịnh) chỉ định, chuyên làm công việc phụng sự, trông coi tại các di tích thuộc
hạng “đặc biệt”, “thượng đẳng” hay “quốc tế” - nơi thờ tự các vị đế vương, công thần,
danh thần, hoặc các nhân vật linh thiêng trong tín ngưỡng dân gian [1, tr.17-18]. Họ
được hưởng những đặc quyền (như miễn thuế, miễn sưu dịch) và chịu sự quản lý, chi
phối của triều đình và chính quyền các cấp.
Văn bia Tạo lệ là những tấm bia đá có nội dung ghi chép về quá trình ban cấp
điển lệ Tạo lệ nói trên. Đây được xác định là một loại hình văn bia riêng có của Việt
Nam, không xuất hiện trong bi ký học của các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn
Quốc hay Nhật Bản [1, tr.21]. Văn bia Tạo lệ hình thành dựa trên các văn bản hành
chính (sắc chỉ, lệnh chỉ, lệnh dụ) được khắc ghi lên đá, nhằm mục đích lưu truyền
vĩnh viễn các quyết định của nhà nước về việc quản lý di tích.
2. Lược sử và đặc điểm của văn bia Tạo lệ
Theo thống kê của luận án, hiện Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VNCHN) đang lưu
trữ 90 đơn vị thác bản văn bia Tạo lệ (tương đương 185 mặt thác bản) [1, tr.10]. Các
văn bia này có niên đại trải dài từ đầu thế kỷ XVII (niên hiệu Hoằng Định thứ 2,
1601) đến cuối thế kỷ XIX (niên hiệu Tự Đức), tập trung chủ yếu vào thời Lê Trung
hưng (75 văn bia) [1, tr.43].
Về không gian, văn bia Tạo lệ phân bố chủ yếu ở 12 tỉnh từ đồng bằng, trung du
Bắc Bộ đến Bắc Trung Bộ, với số lượng nhiều nhất tại Hà Nội (30 bia), Hải Dương
(19 bia) và Bắc Ninh (17 bia) - những vùng đất kinh kỳ, gần gũi với trung tâm quyền
lực và có mật độ di tích dày đặc [1, tr.52].
Về hình thức, văn bia Tạo lệ mang đặc trưng nghệ thuật thời Lê Trung hưng, với
trang trí trán bia hình rồng, mây, chim phượng chầu nguyệt... có xu hướng dân gian
hóa [1, tr.59]. Chữ viết chủ yếu là chữ Hán, khắc theo lối chân thư, rõ ràng, trang
trọng. Một số ít văn bia có sử dụng chữ Nôm để ghi địa danh, tên riêng [1, tr.63].
HTP4 - K16 NMHĐ .23