Page 35 - ChandungVH
P. 35

Ông sinh năm 1902 tại làng Lương Điền (nay là Thanh Xuân), huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An
                trong một gia đình nho học. Cha tham gia phong trào Duy Tân bị bắt đi đày Côn Đảo. Từ 6
                tuổi ở với bà nội.

                Năm 1925, bắt đầu tham gia cách mạng, hoạt động văn hoá từ những năm 1936.
                Đặng Thai Mai có vốn nho học uyên thâm và am hiểu văn học cổ điển Pháp, văn học hiện đại Trung
                Quốc, văn học cận đại Việt Nam. Đặng Thai Mai là nhà lí luận phê bình sắc sảo. Năm 1982, ông
                được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh. Năm 1996, ông lại được Nhà nước truy
                tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt I) về các công trình nghiên cứu văn học Việt Nam và văn học
                thế giới.

                Đặng Thai Mai mất năm 1984.



                30. Hoài Thanh (1909 - 1982)


                       Vị nghệ thuật nửa cuộc đời
                       Nửa đời sau lại vị người ngồi trên
                       Thi nhân còn một chút duyên
                       Lại vò cho nát lại lèn cho đau
                       Bình thơ tới thuở bạc đầu
                       Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
                       Giật mình mình lại thương mình
                       Tàn canh tỉnh rượu bóng hình cũng tan


                         (Xuân Sách)




                Tiểu sử:



                Hoài Thanh có tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên (ngoài ra ông còn sử dụng các bút danh khác
                như Văn Thiên, Le Nhà Quê), là một nhà phê bình văn học uyên bác và tinh tế, có vị trí lớn trong
                văn học Việt Nam thế kỉ 20. Cùng với em trai là Hoài Chân, ông là đồng tác giả cuốn Thi nhân Việt
                Nam.

                Quê ông ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Hồi nhỏ ông là học sinh của trường Quốc
                học Vinh. Trước 1945, ông tham gia viết văn, làm báo, dạy học và được coi là người đứng đầu
                trường phái phê bình văn học Nghệ thuật vị nghệ thuật. Ông từng gia nhập Tân Việt cách mạng
                Đảng, tham gia Tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ở Huế tháng 8 năm 1945.

                Sau 1945 ông lần lượt giữ những chức vụ: Chủ tịch Hội văn hóa cứu quốc, Huế (tháng 9 năm 1945);
                cán bộ giảng dạy tại Đại học Hà Nội (từ 1945 đến 1946); công tác tại Đài tiếng nói Việt Nam (từ
                1947 đến 1948); ủy viên Ban thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam(1950); Trưởng tiểu ban Văn nghệ
                Ban Tuyên huấn Trung ương (1950-1956); Vụ trưởng Vụ nghệ thuật và giảng dạy tại Khoa Văn Đại
                học Tổng hợp Hà Nội (1958). Trong khoảng 10 năm 1958-1968 ông trở thành đại biểu Quốc hội
   30   31   32   33   34   35   36   37   38   39   40