Page 232 - LSDB huyen Xuan Truong
P. 232

vào đồng ruộng. Năm 1976, thời tiết diễn biến phức tạp, vụ chiêm
            xuân rét đậm kéo dài, thiếu ánh sáng; vụ mùa nắng hạn gay gắt,
            ảnh hưởng đến sản xuất lúa và hoa màu. Nhưng với sự nỗ lực
            phấn đấu của toàn dân, sản xuất nông nghiệp của huyện đã giành
            thắng lợi trên cả 3 mặt diện tích, năng suất và sản lượng. Diện tích
            lúa vượt 4,4%, năng suất đạt trên 7 tấn/ha/năm, tăng 17% so với
            kế hoạch. Toàn huyện có 9 hợp tác xã đạt năng suất 8 tấn/ha/năm
            trở lên. Tiêu biểu là Hợp tác xã Xuân Tiến đạt 10,449 tấn/ha, Hợp
            tác xã Xuân Bắc đạt 9,504 tấn/ha, Hợp tác xã Xuân Phương đạt
            9,633 tấn/ha, Hợp tác xã Xuân Kiên đạt 9,504 tấn/ha.
               Huyện  luôn  chú  trọng  chỉ  đạo  các  đơn  vị  có  kinh  nghiệm
            sản xuất cây màu vụ đông như: Xuân Hồng, Xuân Tiến, Xuân
            Thượng. Những xã có phong trào trồng cây khá là Xuân Thành,
            Xuân Vinh. Phong trào trồng cây nhân dân có nhiều cố gắng, đã
            trồng được hàng triệu cây, bình quân đạt 7,9 cây/người.

               Trên cơ sở cây lúa và cây rau màu phát triển, nguồn thức ăn
            dồi dào hơn nên ngành chăn nuôi, nhất là chăn nuôi lợn cũng có
            điều kiện phát triển. 100% hợp tác xã trong huyện đều có trại
            chăn nuôi lợn tập thể. Đàn lợn lai kinh tế được quan tâm chỉ đạo,
            bổ sung ngày càng nhiều. Năm 1976, số đầu lợn và sản lượng lợn
            hơi đạt 97,9% kế hoạch. Các hợp tác xã có phong trào chăn nuôi
            lợn tập thể khá là Xuân Phương, Xuân Hồng... Lĩnh vực chăn nuôi
            gia súc, gia cầm có nhiều cố gắng để giữ vững tổng đàn. Hợp tác xã
            nông nghiệp Xuân Bảng, Xuân Phương đã tận dụng ao, hồ, đầm để
            nuôi thả cá, tăng thu nhập và phục vụ nhu cầu đời sống của Nhân
            dân. Trại cá giống Thọ Nghiệp được củng cố, đạt kết quả khá, cung
            cấp 6 triệu cá giống cho các hợp tác xã và Nhân dân. Đàn trâu, bò
            cày kéo và sinh sản được quan tâm đúng mức. Tuy nhiên, do điều
            kiện cơ giới hóa còn hạn chế nên số lượng trâu, bò cày kéo chưa bảo
            đảm yêu cầu phục vụ cho khâu làm đất kịp thời vụ.

               Năm 1977 - 1978, quá trình thực hiện cuộc vận động tổ chức lại
            sản xuất theo tinh thần Chỉ thị 208 của Ban Bí thư Trung ương
            Đảng, Nghị quyết số 61/NQ-CP của Hội đồng Chính phủ có nhiều
            tiến bộ, các hợp tác xã khá, giỏi ngày càng tăng, hợp tác xã yếu
            kém giảm. Công tác kế hoạch hóa lao động, hạch toán có tiến bộ,

                                                                             231
   227   228   229   230   231   232   233   234   235   236   237