Page 276 - LSDB huyen Xuan Truong
P. 276
Đối với máy móc, thiết bị, trâu, bò cày kéo, chuồng trại chăn
nuôi, nhà kho, sân phơi của đội sản xuất với tinh thần chung là
không đặt vấn đề tập thể hóa, khuyến khích xã viên tự trang
trải. Do đó, hợp tác xã khoán thẳng cho đội, tổ chuyên các máy
móc, thiết bị hiện có; trâu, bò cày kéo được hóa giá bán thẳng
cho xã viên. Nhà kho, sân phơi... phần lớn được cải tạo, sửa chữa
thành nhà trẻ, nhà mẫu giáo hoặc thanh lý.
Đối với chăn nuôi, từ tinh thần “Khoán 10”, huyện xác định
hướng phát triển chủ yếu ở khu vực gia đình, trên cơ sở hợp tác
xã tạo điều kiện hỗ trợ vốn, thú y. Đồng thời, tạo điều kiện vốn
vay cho hộ xã viên mua thêm trâu, bò cày kéo...
Thực hiện cơ chế mới theo “Khoán 10”, hộ gia đình và người
nhận khoán có quyền chủ động toàn bộ quá trình sản xuất, kinh
doanh trên diện tích đất nhận khoán. Được giao đất và ổn định
mức thu, hộ xã viên phấn khởi, chủ động cải tạo mặt bằng, mua
sắm công cụ như bình thuốc trừ sâu, máy tuốt lúa, máy công
nông, máy cày, máy xay xát; đầu tư sức lực, trí tuệ, phân bón...
trên mảnh ruộng để vượt khoán. Người nhận khoán được toàn
quyền sử dụng toàn bộ sản phẩm của mình làm ra sau khi hoàn
thành nghĩa vụ đối với Nhà nước và tập thể.
Từ thực tế tổ chức thực hiện “Khoán 10”, việc tinh giảm biên
chế bộ máy quản lý hợp tác xã là cần thiết. Sau 2 năm thực hiện
“Khoán 10”, bộ máy quản lý hợp tác xã trong toàn huyện giảm
57% so với năm 1987. Chất lượng đội ngũ cán bộ từng bước được
nâng lên. Tổ chức dịch vụ, sản xuất, kỹ thuật trong hợp tác xã có
chuyển biến tích cực. Hợp tác xã làm khá, giỏi trong huyện chiếm
tới 54,7%, điển hình như các hợp tác xã Xuân Hùng, Xuân Kiên,
Xuân Bắc, Xuân Thành...
Phát huy quyền chủ động sản xuất, kinh doanh, phần lớn các
hợp tác xã tập trung vốn xây dựng cơ bản; giá trị tài sản cố định
tăng nhanh, 54% số hợp tác xã tổ chức dịch vụ có lãi, 80% số hợp
tác xã còn vốn quỹ để sản xuất, kinh doanh.
Sau 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần
thứ IX và 1 năm thực hiện “Khoán 10”, kinh tế nông nghiệp
275

