Page 278 - LSDB huyen Xuan Truong
P. 278

của sản xuất nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
            huyện. Trên mặt trận nông nghiệp, huyện đã tập trung trí tuệ, công
            sức, mọi chủ trương, biện pháp, bám sát nội dung Nghị quyết 10
            của Bộ Chính trị và thực hiện thành công vấn đề lương thực - thực
            phẩm, góp phần ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân.

               Các biện pháp thâm canh, tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu giống
            nhằm tăng năng suất lao động, tăng sản lượng lương thực được
            đẩy mạnh. Cùng với quá trình sản xuất là quá trình hình thành
            và từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý mới, đồng thời nâng cao
            trình độ cán bộ và công tác tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả quản
            lý hợp tác xã. Công tác tổ chức dịch vụ đã có nhiều hợp tác xã
            thực hiện với những hình thức sáng tạo, đáp ứng nhu cầu và điều
            kiện bảo đảm sản xuất.

               Phần lớn các hộ xã viên nhận khoán đã chủ động về giống, vốn,
            vật tư, tích cực học hỏi kinh nghiệm và mạnh dạn ứng dụng tiến
            bộ khoa học kỹ thuật vào thâm canh. Xã viên bám sát đồng ruộng,
            cải tạo đất đai, cần cù lao động, khắc phục ảnh hưởng của bão lụt,
            hạn hán, phòng trừ sâu bệnh để đẩy mạnh sản xuất. Vụ chiêm
            xuân 1989, lúa phát triển tốt, nhưng khi chín rộ gặp phải cơn bão
            sớm nên năng suất chỉ đạt 31,02 tạ/ha; sản lượng giảm trên 1.000
            tấn thóc. Phong trào thi đua “lấy mùa bù chiêm” là ý chí tiến công
            cách mạng của toàn Đảng, toàn dân huyện nhà trong việc thực
            hiện mục tiêu quan trọng về lương thực. Nhiều hợp tác xã đã tận
            dụng đất bãi, đất ven sông, đất mạ để mở rộng diện tích gieo cấy.

               Để thực hiện biện pháp hàng đầu trong khâu thâm canh lúa
            là tưới, tiêu nước, huyện đã huy động 5 vạn dân công của các địa
            phương, nạo vét, khơi thông dòng chảy sông Xuân Thủy và 554 kênh
            mương cấp 3; tổng khối lượng đào đắp là 715.000 m  (riêng nạo vét
                                                                 3
            sông Xuân Thủy là 130.000 m  đất). Các xã, hợp tác xã làm tốt công
                                           3
            tác thủy lợi là Xuân Phương, Xuân Bắc, Xuân Phú, Xuân Phong...

               Vụ mùa năm 1989, toàn huyện đã cấy vượt diện tích 270 ha,
            là vụ có năng suất cao thứ 2 sau vụ mùa năm 1987, đưa năng
            suất bình quân toàn huyện đạt 66,05 tạ/ha, bằng 93% kế hoạch.
            Tổng sản lượng lương thực cả năm đạt 86,6% kế hoạch. Trong khó
            khăn, các điển hình thâm canh vẫn được giữ vững như Xuân Kiên

                                                                             277
   273   274   275   276   277   278   279   280   281   282   283