Page 283 - LSDB huyen Xuan Truong
P. 283
Xuân Thủy đã tăng thêm thiết bị, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất, mở thêm sản phẩm rượu ong, bia ong cung cấp cho
thị trường toàn tỉnh, năng động trong việc ký kết hợp đồng xuất
khẩu nên đã giữ vững sản xuất, giải quyết thêm việc làm cho
người lao động.
Năm 1989, tổng giá trị sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp của huyện chỉ đạt 94% kế hoạch. Mặc dù huyện đã cố
gắng chỉ đạo nhưng ngành tiểu thủ công nghiệp chưa chuyển
biến. Nhiều hợp tác xã vẫn trong tình trạng khó khăn, bế tắc,
chưa có hướng sản xuất để bắt nhập với cơ chế thị trường. Một
số hợp tác xã phải đóng cửa như Hợp tác xã đóng thuyền Xuân
Kiên, Hợp tác xã thảm cói Hợp Tiến (Xuân Hồng), 17 hợp tác xã
khác không có việc làm và gần như giải thể. Một số đơn vị sản
xuất cầm chừng, lương bình quân của xã viên chỉ đạt từ 15.000 -
20.000 đồng/tháng.
Năm 1990, phần lớn các xí nghiệp quốc doanh do huyện quản
lý đã tìm được hướng đi mới phù hợp với thực tế, giữ vững được
sản xuất. Một số xí nghiệp hoạt động có lãi và nộp ngân sách
cho Nhà nước. Hoạt động của các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh được mở rộng và đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần giải
quyết việc làm cho người lao động, tăng thêm sản phẩm xã hội và
mở rộng lưu thông hàng hóa trên địa bàn huyện.
Tuy vậy, do chuyển đổi cơ chế thị trường, nhiều xí nghiệp quốc
doanh, các cơ sở sản xuất kinh doanh, các hợp tác xã tiểu thủ
công nghiệp lâm vào khủng hoảng, sản xuất giảm sút. Nguyên
nhân là do cán bộ lãnh đạo các xí nghiệp, các hợp tác xã tiểu thủ
công nghiệp không đủ năng lực, chưa nhạy bén với tình hình
chung của đất nước khi chuyển đổi cơ chế mới.
Các tổ hợp sản xuất và kinh tế tư nhân có sự manh nha phát
triển bởi cơ chế và chính sách mới. Người lao động thực sự được
“cởi trói”; do được quan tâm hơn về lợi ích trực tiếp của họ. Song,
phải có thời gian để thử thách, kiểm nghiệm trong những điều
kiện sản xuất khác nhau mới thấy hết được xu thế phát triển của
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của huyện trong những giai
đoạn tiếp theo.
282

