Page 285 - LSDB huyen Xuan Truong
P. 285
Hai năm 1987 - 1988 là thời kỳ đầu xóa bỏ bao cấp, trên lĩnh
vực phân phối, lưu thông, cung cầu mất cân đối. Hàng hóa, nhất
là hàng tiêu dùng khan hiếm, giá cả biến động lớn và tăng nhanh,
nguồn vốn thiếu nghiêm trọng so với yêu cầu sản xuất. Nhưng
do vận dụng và thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng và Nhà nước nên hoạt động trên lĩnh vực phân phối, lưu
thông của huyện từng bước được cải thiện. Các đơn vị bắt đầu
chuyển hướng hoạt động, mạng lưới thương nghiệp được củng cố
và tăng cường, công tác quản lý từ huyện đến cơ sở chuyển hẳn
sang cơ chế mới: hạch toán kinh tế kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời khuyến khích, động viên tư nhân và các hộ gia đình
phát triển dịch vụ và sản xuất, kinh doanh các mặt hàng Nhà
nước cho phép. Do vậy, đã bảo đảm thu mua, cung ứng vật tư,
hàng hóa phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, thời kỳ này tình trạng lạm phát còn diễn ra.
Tổng thu ngân sách bình quân 2 năm (1987 - 1988) chỉ đáp ứng
nhu cầu cơ bản. Trong cơ chế mới, ngân hàng là cơ quan chậm
chuyển đổi nhất, chỉ bảo đảm chi lương, bảo hiểm xã hội và chi
hành chính. Việc đầu tư vốn phục vụ sản xuất rất hạn chế, kể cả
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu cũng chưa đáp ứng được nhu
cầu. Việc huy động vốn trong Nhân dân bước đầu tiến bộ, bình
quân số dư tiền gửi tiết kiệm từ 150 đồng/người (năm 1986) lên
574 đồng/người (năm 1988). Trong khó khăn chung của đất nước,
cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong huyện đã hoàn thành vượt
mức chỉ tiêu mua công trái xây dựng Tổ quốc; tiêu biểu là các xã:
Xuân Tiến, Xuân Bắc, Xuân Hồng, Xuân Tân...
Năm 1989 - 1990, do chậm đổi mới về tổ chức và phương thức
hoạt động, lĩnh vực phân phối, lưu thông, trước hết là hệ thống
thương nghiệp quốc doanh không giữ được vai trò chủ đạo. Thương
nghiệp quốc doanh chỉ giữ vai trò chi phối 2 mặt hàng chủ yếu là
vật tư nông nghiệp và lương thực. Hợp tác xã mua bán, hợp tác xã
tín dụng từ huyện đến cơ sở chao đảo, mất phương hướng trước cơ
chế thị trường. Hầu hết kinh doanh thua lỗ, bị chiếm dụng vốn,
trên 50% hợp tác xã mất vốn không còn khả năng hoạt động. Số
còn lại hoạt động cầm chừng, không có hiệu quả và mất lòng tin
284

