Page 369 - Dang bo huyen Tien Yen qua cac nhiem ky Dai hoi 16x24
P. 369
ÑAÛNG BOÄ HUYEÄN TIEÂN YEÂN QUA CAÙC NHIEÄM KYØ ÑAÏI HOÄI
chính sách xã hội huyện đã thường xuyên quan tâm, cấp đủ lương
và trợ cấp hằng tháng, tổ chức thăm hỏi, động viên tặng quà nhân
ngày lễ, tết.
Tốc độ tăng dân số cao (năm 1989 tỷ lệ sinh 3,9‰) cũng là nguyên
nhân gây ra khó khăn về kinh tế - xã hội. Mức tăng dân số trong
những năm qua tương ứng với mức tăng về lương thực do vậy bình
quân lương thực đầu người năm 1990 không tăng so với năm 1988 (ở
mức 261 kg). Công tác tuyên truyền vận động Nhân dân thực hiện
sinh đẻ có kế hoạch chưa tiến hành tốt. nhiều vùng nông thôn nhất
là vùng đồng bào dân tộc ít người chưa có chuyển biến trong việc
hạn chế sinh đẻ.
Vấn đề việc làm tuy không gay gắt như những địa phương khác
nhưng cũng là việc nổi cộm. Do kinh tế của huyện chưa phát triển,
các đơn vị kinh tế quốc doanh thu hẹp sản xuất hoặc giải thể, đơn vị
kinh tế tư nhân có phát triển nhưng chưa nhiều nên còn hàng nghìn
lao động chưa có việc làm hoặc dôi dư. Trong khi đó một số xã tùy
tiện để 120 hộ, 569 khẩu ở địa phương khác đến nhập cư trái phép
làm cho sức ép về việc làm càng tăng thêm.
Lĩnh vực giáo dục vẫn được duy trì nhờ nỗ lực của đội ngũ giáo
viên, sự đầu tư của Nhà nước và sự đóng góp của Nhân dân. Số học
sinh năm 1991 có gần 6.000 người chiếm 17% dân số trong huyện.
Đội ngũ thầy cô giáo tuy đời sống còn nhiều khó khăn nhưng đại bộ
phận vẫn bám nghề, một số phấn đấu trở thành giáo viên dạy giỏi
cấp tỉnh, huyện và trở thành đảng viên. Từ năm 1989 - 1991, huyện
đã đầu tư gần 60 triệu đồng cùng với hàng chục triệu đồng đóng góp
của Nhân dân để sửa chữa, xây dựng trường lớn, duy trì trường Phổ
thông dân tộc nội trú đào tạo con em các dân tộc ít người...
Nhưng sự nghiệp giáo dục của huyện nằm trong bối cảnh chung
của cả nước chưa thoát khỏi tình trạng yếu kém, công tác chỉ đạo,
quản lý của ngành giáo dục còn bất cập.
Chất lượng giáo dục có phần giảm sút (học lực trung bình chiếm
67,8%, học lực yếu kém chiếm 17,2%, đạo đức trung bình và kém
chiếm 16,1%, riêng cấp III chiếm 26%). Số lượng học sinh bỏ học,
chán học ngày càng nhiều, nhất là cấp II và cấp III (năm học 1990 -
1991 so với năm học 1987 - 1988, số học sinh cấp II giảm 9%, học
sinh cấp III giảm 56%). Số học sinh đến lớp so với số người đủ trong
tuổi đi học mới có 47,2%. Số người mù chữ tăng lên.
370