Page 111 - SCK Mot so va de ve thua ke theo quy dinh cua phap luat VN
P. 111
phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm
mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp
người được di tặng không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa
kế”. Việc bổ sung này đã dự liệu đầy đủ trường hợp chủ thể được di tặng không
những là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế, mà còn là người được sinh ra
sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di tặng chết.
Chủ thể không phải là cá nhân thì phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Quy
định này nhằm tạo điều kiện cho người lập di chúc để lại phần di sản di tặng cho
cá nhân, pháp nhân với ý nghĩa kỷ niệm hoặc hàm ơn, thỏa mãn ý nguyễn của
người để lại di tặng.
Bản chất của di tặng không phải là hợp đồng tặng cho. Hợp đồng tặng cho
là sự thoả thuận giữa người được tặng cho và người tặng cho. Chủ thể tặng cho
và chủ thể được tặng cho đều phải còn sống để thể hiện ý chí cho và nhận tài sản.
Nhưng di tặng chỉ phát sinh từ cơ sở định đoạt của người có di sản lập di chúc và
người được chỉ định nhận di tặng khi người để lại di tặng chết. Người được di
tặng chỉ có thể là một người hay nhiều người cụ thể, là người này mà không phải
là người khác, tuỳ thuộc vào sự định đoạt của người có di sản lập di chúc.
Theo nguyên tắc chung của pháp luật thừa kế, kể từ thời điểm mở thừa kế
thì toàn bộ tài sản, nghĩa vụ tài sản của người chết để lại được chuyển dịch cho
người thừa kế. Di tặng là phần di sản của một người được để lại để tặng cho người
khác theo sự định đoạt của người có tài sản đó bằng cách lập di chúc. Quyền của
người được chỉ định hưởng di tặng có được đáp ứng ngay hay không được đáp
ứng ngay sau khi người để lại di sản chết. Địa vị của người được hưởng phần di
tặng có tương tự như địa vị của người thừa kế theo di chúc trong quan hệ nhận di
sản thừa kế. Vì vậy, cần phải xác định phạm vi và tính chất của di tặng trong mối
liên hệ với di sản thừa kế như sau:
Di tặng là một phần tài sản trong khối di sản của người chết để lại; việc xác
định giá trị của di tặng không thể vượt ra ngoài phạm vi giá trị khối di sản của
người chết. Trước hết, phải thanh toán các nghĩa vụ về tài sản của người chết để
lại từ khối di sản của người đó và tuân theo thứ tự ưu tiên đã được quy định tại
Điều 658 BLDS năm 2015, phần di tặng được trừ từ di sản còn lại đó. Người được
di tặng không phải là người được thừa kế di sản mà được hiểu là người có quyền
tài sản từ khối di sản của người để lại di tặng. Như vậy, di tặng chỉ phát sinh từ
căn cứ duy nhất - từ di chúc. Thực chất, phần di tặng đã được xác định theo sự
định đoạt của người lập di chúc vẫn thuộc về người được di tặng; theo đó phần di
109