Page 2 - 03- Barrett Esophagus
P. 2
THIÊN QUÂN
BỆNH BARRET THỰC QUẢN
CƠ BẢN
SỰ MÔ TẢ
Sự chuyển sản của niêm mạc thực quản xa từ biểu mô vảy phân tầng tự nhiên đến
biểu mô trụ (ruột bị) bất thường; có thể là hậu quả của mãn tính bệnh trào ngược dạ dày
thực quản (GERD)
Có khuynh hướng phát triển ung thư biểu mô tuyến của thực quản
DỊCH TỄ HỌC
Tuổi chủ yếu> 50 tuổi, phổ biến hơn ở nam giới
Ước tính có mặt trong 1-2% dân số trưởng thành
Rất hiếm ở trẻ em
Tỷ lệ mắc bệnh
10–15% bệnh nhân được nội soi để đánh giá các triệu chứng trào ngược
Tỷ lệ mắc ung thư biểu mô tuyến thực quản (EAC) đang gia tăng ở Hoa Kỳ (1); Gấp 6
lần tăng (lên 2,5 trường hợp trên 100.000) kể từ những năm 1970
Tỷ lệ mắc ung thư biểu mô tuyến hàng năm ở tất cả bệnh nhân Barrett ước tính khoảng
0,5% mỗi năm
Được quy cho những thay đổi về hút thuốc và béo phì hơn là phân loại lại hoặc chẩn đoán
quá mức
Mức độ phổ biến
Khó xác định, có thể lên tới 1,5 đến 2 triệu người trưởng thành ở Hoa Kỳ (ngoại suy từ
một 1,6% phổ biến trong dân số Thụy Điển)
NGUYÊN NHÂN VÀ SINH LÝ BỆNH
Trào ngược dạ dày mãn tính làm tổn thương niêm mạc thực quản, gây ra hiện tượng
chuyển sản cột sống.
Các axit mật trào ngược có khả năng tạo ra sự biệt hóa trong các tế bào tiếp giáp dạ dày
thực quản (GEJ).
Tế bào đại tràng trong thực quản có khả năng ác tính cao hơn tế bào vảy.