Page 228 - Di san van hoa An Duong
P. 228

- Câu đối thứ 2, treo tại cột cái gian bên tòa tiền tế
                   Chữ Hán:        護國庇民越地千秋增錦秀

                                   扶危助難南天萬古印輝煌


                   Phiên âm:       Hộ quốc tí dân, Việt địa thiên thu, tăng cẩm tú

                                   Phù nguy, trợ nan, Nam thiên vạn cổ, ấn huy hoàng

                   Dịch nghĩa:     Giúp nước, cứu dân, đất Việt ngàn năm thêm mãi đẹp

                                   Chuyển nguy, giải hạn, trời Nam muôn thuở rõ huy hoàng

                   Hai câu đối không đề lạc khoản, nhưng qua hoa văn trang trí có thể xác định
              câu đối có niên đại đầu thế kỷ XX, câu đối do cộng đồng dân làng cung tiến vào
              đình.

                   Xưa kia nhân dịp tưởng niệm ngày mất của Cao Sơn, Quý Minh, ngày 10

              tháng 2 âm lịch, nhân dân Kiều Hạ tổ chức hội làng trong ba ngày 8, 9 và 10. Trong
              hội lễ, có rước thánh từ đình ra miếu Sộp, sau đó đi quanh làng rồi về đình tế lễ.
              Lễ rước thánh có kiệu, long đình, bát hương và các nghi trượng, nghi vệ như: bát

              biểu, tàn, tán lọng, chấp kích... Ngoài phần tế lễ dâng hương thánh, lễ hội còn có
              những trò chơi thi đấu như: đấu vật, bắt vịt, đi cầu thùm, đu tiên... Ngày nay địa
              phương đang từng bước kế thừa và phát huy những nét văn hóa đặc sắc trong lễ
              hội làng của tiền nhân để lại.


                   CHÙA Kiều Hạ

                   Chùa Kiều Hạ nằm trong cụm di tích đình - chùa Kiều Hạ, xã Quốc Tuấn.
              Chùa Kiều Hạ có tên Nôm là chùa Hang. Tên chùa Hang được giải thích bởi tại
              khuôn viên chùa có hang nước ngọt, song tên Nôm chùa còn gợi mở cho chúng

              ta suy nghĩ về thời gian ngôi chùa hình thành từ rất xa xưa, vì tên Nôm của
              người Việt thường được sử dụng trước thế kỷ X. Chùa có tên chữ là Linh Quang
              (靈光), tên mang ý nghĩa ánh sáng linh thiêng của Phật pháp được chiếu rọi tới
              nơi đây. Qua nghiên cứu về những cổ vật hiện ngôi chùa đang lưu giữ, bảo tồn

              như bia đá, tượng pháp... có thể xác định chùa Kiều Hạ được xây dựng muộn
              nhất vào thời Mạc, thế kỷ XVI. Bởi trong bia đá dựng niên hiệu Chính Hòa thứ
              21 (1700), ghi việc trùng tu lớn ngôi chùa, có ghi chùa Linh Quang là nơi cổ tích

              danh lam có từ rất lâu đời. Thời điểm trùng tu trên sư trụ trì chùa là vị tăng
              Phạm Minh Hào, tên chữ là Huyền Văn, người xã An Hựu (nay là thôn An Hựu,



                                                  DI SẢN VĂN HÓA TIÊU BIỂU HUYỆN AN DƯƠNG    228
   223   224   225   226   227   228   229   230   231   232   233