Page 479 - Di san van hoa An Duong
P. 479
2. BÙI XUÂN Hổ (? - ?)
ng là em của Bùi Xuân Hùng cũng đỗ Thái học sinh thời Trần và được
Ôthờ làm Thành hoàng làng Đào Yêu. Vua Khải Định thứ 9 (1924) sắc
phong ông là “Trần triều Tiến sĩ, Lịch sĩ Công bộ Tả thị lang Hành đô đài sự, Bùi
Xuân Hổ tướng công tôn thần”. Nhân dịp mừng thọ 40 tuổi, vua cũng đã gia tặng
mỹ tự, nâng phẩm trật cho Ngài là “Quang ý Trung đẳng thần”. Sau khi hóa, các
Ngài hiển thánh và được dân làng Đào Yêu lập miếu phụng thờ làm Thành hoàng
làng. Ngôi miếu sau này được các vị tiên hiền, tiên Nho tôn vinh là miếu Lục Kiều,
bát xã. Cũng như Ngài Bùi Xuân Hùng, trong bia “Các nhà khoa bảng”, dựng năm
1850, tại miếu Lục Kiều, bát xã đã khắc ghi khoa danh và chức vụ của ông. Ngôi
miếu ngoài việc thờ hai Ngài, còn là nơi sinh hoạt giáo hóa, tôn vinh đạo thánh
hiền của Hội Tư văn, tổng Kiều Yêu, huyện An Dương.
3. PHạM ĐạI LIêU (? - ?)
ng là người làng Tiên Sa, nay là thôn Tiên Sa, xã Hồng Thái. Theo
Ôthần tích làng Đình Ngọ, nay là thôn Đình Ngọ, xã Hồng Phong,
Phạm Đại Liêu đỗ tiến sĩ, không rõ khoa thi nào, làm quan đến chức Tả thị
lang. Khi có giặc Cao Man đến xâm phạm, ông được vua cử đi đánh dẹp, đã
bắt được tướng giặc và được phong thưởng. Sau khi về trí sĩ, ông đến sống ở
làng Đình Ngọ, mở trường dạy học, học trò nhiều người thành đạt. Vua Lê
Thái Tổ khởi nghĩa đánh giặc Minh, khi qua đền cầu được báo mộng linh ứng.
Sau khi bình được thiên hạ, vua phong ông là Phúc thần. Do có nhiều công
lao với dân, với nước nên sau khi mất, ông đã được người dân làng Đình Ngọ
và quê hương Tiên Sa thờ làm Thành hoàng.
4. Vũ MẫN Trí (? - ?)
gười làng Khuê Chương, tổng Phí Gia (sau đổi thành Phí Xá) huyện Kim
NThành, sau cắt về huyện An Dương, nay thuộc xã Lê Thiện. Ông đỗ Đệ
nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp), khoa thi năm Ất Mùi 6 (1475), niên hiệu
Hồng Đức, đời Lê Thánh Tông, được ghi vào bia tại Văn miếu Quốc Tử Giám, làm
quan đến chức Đoán sự.
479 DI SẢN VĂN HÓA TIÊU BIỂU HUYỆN AN DƯƠNG