Page 483 - Di san van hoa An Duong
P. 483

Tuy ông đỗ đại khoa và làm quan triều Mạc, nhưng trong bia “Bản huyện
             văn thuộc bi”, dựng năm Cảnh Hưng 25 (1764), đời vua Lê Hiển Tông, ở Văn từ
             hàng huyện tại đình Hàng Kênh, phường Hàng Kênh, quận Lê Chân, có ghi tên
             ông. Bia “Các nhà khoa bảng”, dựng niên hiệu Tự Đức thứ 3 (1850), bia đặt tại
             miếu Lục Kiều, bát xã, làng Đào Yêu, có ghi ông làm quan ở Hộ bộ, chức Tả thị

             lang, tước An Chân hầu và được gia tặng “Mẫn đạt An sinh đại vương”.




                                         13. NGUYỄN LỄ (? - ?)


                         gười làng Tiên Sa, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, nay là làng Tiên

                   NSa, xã Hồng Thái. Tại khoa thi năm Giáp Tuất, niên hiệu Sùng Khang
             thứ 9, đời vua Mạc Mục Tông (1574), ông thi Hội đỗ trúng cách, nhưng ông không
                          (1)
             dự thi Đình , mà đi theo giúp nhà Lê. Các sách “Lịch triều đăng khoa “ và sách
             “Các  nhà  khoa  bảng  Việt  Nam” đều  chép  Nguyễn  Lễ  bỏ  thi  Đình  theo  Hoàng
                                                                                     (2)
             vương Mạc Chính Trung làm chính biến, thất bại mới đi theo nhà Lê .

                   Bia “Bản huyện văn thuộc bi”, dựng năm Cảnh Hưng 25 (1764), ở Văn từ đặt
             tại đình Hàng Kênh, phường Hàng Kênh, quận Lê Chân, có ghi Nguyễn Lễ, người
             xã Tiên Sa, thi đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Tuất (1574), làm quan chức
             Vi văn đảm sự. Bia “Các nhà khoa bảng”, dựng năm Tự Đức thứ 3 (1850), tại miếu

             Lục Kiều, bát xã, làng Đào Yêu, có ghi Nguyễn Lễ là trúng cách khoa Giáp Tuất
             (1574) là chí sĩ chức Văn điện đường sự.




                                         14. Vũ KIỀU (1659 - ?)




                         gười làng Ngọ Dương, huyện Kim Thành, phủ Kinh Môn, nay là làng Ngọ
                   NDương, xã An Hòa. Ông đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân, lúc ông
             27 tuổi, khoa thi năm Tân Sửu, niên hiệu Bảo Thái thứ 2, đời vua Lê Dụ Tông (1721),
             làm quan tới chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng Hữu Thị lang Bộ Hình.



             (1) Thi Hội là hội thi của nhân sĩ cả nước, thường lệ 3 năm tổ chức một lần, tại Kinh đô (trước sân
             điện Giảng Võ), để tuyển chọn người có tài, học rộng. Người nào qua cả 4 kỳ (tứ trường: nhất, nhì,
             ba, tư) của khoa thi Hội là đậu đại khoa, sẽ vào tiếp thi đình để xếp hạng Tiến sĩ, nếu chỉ đậu 3 kỳ
             gọi là đậu Tam trường thi Hội. Người đỗ đầu các vị đại khoa thi Hội gọi là Hội nguyên.
             (2) Hội đồng Lịch sử Hải Phòng - Những ông Nghè đất Cảng, Nxb Hải Phòng, năm 1994, tr.71.



              483   DI SẢN VĂN HÓA TIÊU BIỂU HUYỆN AN DƯƠNG
   478   479   480   481   482   483   484   485   486   487   488