Page 212 - Trinh bay huyen Quoc Oai
P. 212

Cát Lễ và phá đi 40 mẫu ngô, 300 mẫu mía, nói là để làm sân bay,
            nhưng thực ra là để chúng dễ quan sát. Nếu chúng thực hiện được
            âm mưu này thì cả một cánh bãi phì nhiêu sẽ không có thu hoạch,
            ảnh hưởng lớn đến đời sống nhân dân. Chi ủy Sài Sơn lãnh đạo Nhân
            dân kiên quyết không phá và tổ chức đấu tranh bằng cách khất lần
            cho đến khi được thu hoạch. Thực hiện chủ trương đó, Nhân dân các
            xóm trại nhiều lần kéo nhau lên bốt, đấu tranh rất dai dẳng, bằng các
            phương pháp khéo léo, mềm dẻo. Ta không phá, bọn địch tự đi phá,
            các cụ ông, cụ bà và trẻ em kéo lên bốt, đấu lý: “Làm đến lúc được ăn
            thì các ông phá, dân tôi sẽ đói, các ông có cứu tế không?”, khiến chúng
            phải tạm thời nhượng bộ. Lần khác, chúng lại cho lính đi phá, ta vận
            động Nhân dân lên xin khất để còn đắp lò kéo mật, rồi sẽ chặt mía.
            Ta có đắp lò thật, nhưng đắp xong lại đạp đổ, lại đắp cái khác lấy cớ
            là lò chưa khô, để kéo dài thời gian phải chặt mía. Cứ thế, hết đợt này
            đến đợt khác, liên tục đấu tranh, khất được thêm ngày nào lợi ngày
            đó. Mặt khác, hướng dẫn Nhân dân chặt bớt đi một vài hàng đem bán
            làm mía quà, để chúng khỏi ngờ vực. Kết quả, 40 mẫu ngô và 300 mẫu
            mía dưới bãi, quanh bốt Đa Phúc vẫn được bảo vệ đến ngày thu hoạch.

               Cuộc đấu tranh bảo vệ vùng bãi phì nhiêu quanh bốt Đa Phúc giành
            được thắng lợi, chẳng những đem lại niềm tin cho Nhân dân mà còn
            rút ra được kinh nghiệm cho Huyện ủy trong việc lãnh đạo thực hiện
            Nghị quyết “Nắm dân, chỉnh Đảng” của Tỉnh ủy. Tỉnh ủy Sơn Tây đã
            ghi thắng lợi cuộc đấu tranh này trong Báo cáo số 41 ngày 12/7/1952
            (cùng các cuộc đấu tranh ở Phú Cát, Liệp Tuyết) gửi lên Khu ủy Liên
            khu III. Tại hội nghị rút kinh nghiệm tổ chức và lãnh đạo các cuộc đấu
            tranh trong vùng địch thời gian này do Tỉnh ủy triệu tập, kết quả và
            kinh nghiệm của Sài Sơn được đánh giá cao. Đặc biệt, tại lớp chỉnh
            Đảng khóa II do Tỉnh ủy mở cuối năm 1952, Ban lãnh đạo lớp đã mời
            Chi bộ Sài Sơn lên báo cáo kết quả và kinh nghiệm lãnh đạo cuộc đấu
            tranh này.
               Về cơ sở quần chúng, từ chỗ đầu năm 1952, các tổ chức quần chúng
            hầu như tan rã, sau hơn ba tháng thực hiện nghị quyết “Nắm dân,
            chỉnh Đảng”, cơ sở quần chúng gây dựng lại được ở nhiều xã trong
            huyện. Trong số quần chúng đã tập hợp được, lực lượng phụ nữ vẫn
            đông hơn cả. Nhiều bà, nhiều chị đóng góp xuất sắc trong việc nuôi
            giấu, bảo vệ cán bộ, giao thông liên lạc, tuyên truyền phát triển nhân
            mối, địch ngụy vận. Trong xây dựng cơ sở, nhiều nơi đã dựa và lập
            được các tổ chức thấp, công khai, nửa hợp pháp có tính chất tương tế

            212
   207   208   209   210   211   212   213   214   215   216   217