Page 187 - Đặc san VTLV XUÂN TÂN SỬU 2021
P. 187

Đặc San Xuân Tân Sửu                                                  VĂN THƠ LẠC VIỆT


               Nam nhi tự cổ sự tang bồng, hà tất cùng sầu khấp phần tử.

               Bản dịch sang tiếng Việt.

               Kẻ trượng phu sống mà không vạch gan, bẻ cột lo giềng mối cho đời
               Rong chơi bốn biển, quê hương ở nơi đâu?
               Quay đầu trông về Nam, mịt mù vậy hỉ! Trời mây nối mầu xanh ngắt
               Lập công chẳng được, học không xong, trai trẻ có bao lâu,
               ngồi ngó trăm năm, thân đuổi cuộc sớm chiều
               Vỗ tay hát khùng, hỏi đời kia, đất trời mờ mịt vậy, một người tri kỷ tìm ở đâu,
               Thử đến giúp ta rót chén rượu này

               Ta quăng chén rượu đầy trộn nước biển Đông, nước biển Đông nổi cuộn vạn lớp sóng
               Ta quăng chén rượu đầy vào mưa núi Tây, mưa núi Tây một trận sao lênh láng
               Ta quăng chén rượu đầy đuổi theo gió Bắc, gió Bắc tung cát lăn đá bay nơi khác
               Ta quăng chén rượu đầy vào mây mù trời Nam, trong mây mù có người há miệng
               điềm nhiên say tràn
               Trời đất dọc ngan đều mất hết, sao ta không say, chí ta thời ta làm

               Từ xưa Nam nhi đuổi theo tang bồng, cớ gì sùi sụt sầu cố hương.

                       Sau này có rất nhiều bài viết lại, nhưng mỗi bài đều có một vài điểm không giống
               nhau, ví dụ chữ (bẻ cột) có bài viết là (bẻ cật) Thật ra chữ bẻ cột mới đúng nghĩa.

                       Bẻ Cột là một thành ngữ, vào thời Hán Thành Đế, có Chu Vương là người trung
               hiếu, giám khuyên can vua, nhà vua nổi giận sai chém đầu, trong lúc bị bắt lôi đi, Chu Vân
               uất ức bám tay vào cột trong cung điện mà vặn gẫy cột.

                       Chu Vân được Tân Khánh Kỵ giải cứu, sau đó Hán Thành Đế biết Chu Vân là trung
               thần, nên tha tội, Thành Đế ra lệnh giữ nguyên cây cột gẫy để làm biểu tượng cho lòng
               trung hiếu của Chu Vân. Từ điển tích này nên mới có từ ngữ bẻ cột.

                       Tất cả những bài Hồ Trường dịch ra tiếng Việt. Tôi thích nhất là bản dịch của
               Nguyễn Bá Trác.

               Bài này ông đã dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt như sau:

               Hồ Trường
               Trượng phu không hay sé gan bẻ cột phù cương thường.

               Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương
               Trời Nam nghìn dặm thẳm, mây nước một mầu sương
               Học không thành, danh chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc,
               trăm năm thân thế bóng tà dương
               Vỗ gươm mà hát, nghiêng bầu mà hỏi

                                                             187
   182   183   184   185   186   187   188   189   190   191   192