Page 250 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 250

234                                   Cẩm Phả - Đất và Người


             Soi Nhụ có mối quan hệ rộng rãi hơn với bên ngoài, trước hết
             là cư dân Văn hóa Bắc Sơn. Có thể thấy sự giao lưu giữa cộng
             đồng cư dân Văn hóa Soi Nhụ và Văn hóa Bắc Sơn qua
             những chiếc rìu mài lưỡi kiểu Bắc Sơn trong Văn hóa Soi

             Nhụ, hoặc những con ốc biển Cypraea xuất hiện nhiều trong
             địa điểm thuộc Văn hóa Bắc Sơn. Đến giai đoạn cách ngày
             nay khoảng 7.000 năm, do mực nước biển tiếp tục dâng nên
             có thể những nhóm cư dân sống ở hang động thấp dưới chân

             núi đá vôi thuộc khu vực vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long đã
             di chuyển tới những khu vực cao hơn như Cẩm Phả, Uông Bí,
             Hoành Bồ... Giai đoạn này, cư dân Văn hóa Soi Nhụ đã sáng

             tạo hoặc học hỏi  được kinh nghiệm chế tác công cụ  đá mài
             lưỡi, kỹ thuật chế tạo đồ gốm... . Do địa bàn sinh sống gần
                                                  1
             biển nên hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân Soi Nhụ là
             đánh bắt thủy hải sản và trao  đổi thương mại. Các nhà

             nghiên cứu cho rằng, cư dân Văn hóa Soi Nhụ đã xây dựng
             được một mô hình phân công lao động theo địa vực rất điển
             hình trong nghề đánh cá và trao đổi thương mại sớm.

                 Dựa vào đặc điểm trên xương sọ, xương hàm, xương chi,
             các nhà khảo cổ cho rằng, chủ nhân của Văn hóa Hạ Long
             gần gũi với chủng loại Australo - Melanesien, nhất là
             Melanesien . Cộng đồng cư dân Văn hóa Hạ Long thuộc giai
                          2
             đoạn sớm - điển hình là di chỉ Thoi Giếng (Móng Cái), cư trú
             chủ yếu trên vùng đồng bằng cổ thuộc giai đoạn Pleistocene,


             _______________

                 1. Xem Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh: Địa chí Quảng
             Ninh, Sđd, t.1, tr.403-405.
                 2. Xem Hà Văn Tấn (Chủ biên): Khảo cổ học Việt Nam, tập 1: Thời
             đại đá Việt Nam, Sđd, tr.270-271.
   245   246   247   248   249   250   251   252   253   254   255