Page 251 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 251
Phần thứ hai: LỊCH SỬ 235
cao khoảng 6 m so với mực nước biển hiện tại. Người dân
Văn hóa Hạ Long từ sớm đã cư trú tập trung theo hình thức
sơ khai của những ngôi làng. Họ tiếp tục sử dụng những công
cụ cuội trong săn bắt, hái lượm, đồng thời phát triển kỹ nghệ
mài trong hoạt động trồng rau, củ, quả và cây lấy sợi làm
lưới. Cư dân Văn hóa Hạ Long giai đoạn sớm đã biết làm đồ
gốm với sự trợ giúp của kỹ thuật bàn xoay. Họ tăng cường
khai thác biển theo cả hai phương thức ven bờ và ngoài biển
với sự phân công lao động giữa nhóm ven bờ (phụ nữ, trẻ em)
với nhóm ngoài biển (đàn ông). Vào giai đoạn cách ngày nay
khoảng 4.000 đến 3.000 năm, ảnh hưởng của quá trình biển
tiến Holocene Trung làm cho diện tích cư trú và kiếm sống
của cư dân Văn hóa Hạ Long bị thu hẹp. Bên cạnh đó, sức ép
từ các luồng cư dân từ phía bắc xuống khiến cư dân Văn hóa
Hạ Long phải di cư vào các vùng đồng bằng, trung du và
miền núi Bắc Bộ. Địa bàn cư trú của họ ở địa bàn Quảng
Ninh chủ yếu là các hang động, chân núi đồi nằm ven biển,
các doi cát, bậc thềm và bề mặt đồng bằng cổ, cửa sông và các
vũng vịnh. Cư dân Văn hóa Hạ Long giai đoạn này vẫn duy
trì một mô hình sống phức hợp, thể hiện ở kỹ nghệ chế tác
công cụ đá bằng cách mài, đẽo, cưa, chuốt bóng, tạo nấc...
Nghề thủ công, nhất là nghề làm gốm với đặc trưng gốm xốp,
có trang trí hoa văn đắp thêm, văn khắc vạch kết hợp với trổ
lỗ tạo nên dấu ấn riêng biệt và đặc sắc của Văn hóa Hạ Long.
Đặc biệt, khai thác biển vẫn là nghề truyền thống của cư dân
Văn hóa Hạ Long. Nếu như vào giai đoạn sớm, cư dân ở đây
chủ yếu khai thác biển ven bờ thì đến giai đoạn muộn, họ đã
có sự phân công lao động, kết hợp giữa khai thác ven bờ và
ngoài biển.

