Page 114 - ND KY truong Cam Binh
P. 114
đình và cả dòng họ nữa. Do đó, mỗi chúng tôi đều cố gắng để vượt qua khó khăn,
thiếu thốn, con đường gian nan, vất vả đến trường.
Ngày chúng tôi vào cấp III, các lớp được đặt tên theo A, B, C (8A, 8B, 8C...; 9A,
9B, 9C...; 10A, 10B, 10C..., đến năm 1982, thực hiện cải cách giáo dục, các lớp 8 (lớp
đầu cấp III) được đổi thành lớp 10); trong đó lớp A là con em của liệt sĩ, thương
binh hạng 1 (được ưu tiên tuyển thẳng), lớp B là lớp chọn của trường, còn các lớp
khác phân theo các xã (mỗi lớp có nhiều xã, vì số học sinh mỗi xã không đủ một
lớp). Tôi học lớp B, nên trong lớp có học sinh của rất nhiều xã (tương tự như lớp A).
Trường chúng tôi là những dãy phòng học được xây dựng từ năm 1973 - 1975
(vị trí hiện nay nằm giữa Trạm Y tế và Trường Tiểu học Cẩm Bình), vách tường đã
nham nhở nhiều vết thủng (do ngày đó xi măng khan hiếm, chủ yếu trát tường
bằng vôi, nên độ cứng và bền không cao), các cửa chính bằng gỗ đã xộc xệch, các
cánh cửa sổ phía sau đã hư hỏng, lớp phải làm bằng tre, lợp lá tro (lá cọ). Do trường
ở xa, đường sá trước đây chủ yếu là đường đất, xe đạp không có (số gia đình có xe
đạp trong xã ít hơn số gia đình có ô tô hiện nay rất nhiều), nên những học sinh ở xã
Cẩm Mỹ, Cẩm Duệ, Cẩm Thạch như chúng tôi mượn những nhà trọ quanh trường
để ở. Cứ chiều chủ nhật gia đình chuẩn bị lương thực (gạo, khoai, sắn), thức ăn
(dưa, cà, mắm, muối) lội bộ xuống trường; trưa thứ 7, học xong, cuốc bộ về nhà ăn
cơm. Đến năm 1981, thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, khoán
một số khâu trong sản xuất nông nghiệp, các hợp tác xã giao ruộng cho xã viên sản
xuất, đến vụ gieo cấy hay thu hoạch mùa, chúng tôi 4 giờ sáng dậy xắn quần, xách
dép đi bộ tới trường, học xong, chiều về giúp bố mẹ làm mùa. Tối đến, ngồi bên
ngọn đèn dầu leo lét học bài, làm bài tập để mai đến trường. Kinh tế gia đình khó
khăn, nên sách vở, đồ dùng cho học tập cũng thiếu thốn. Nhiều học sinh không
có đủ sách giáo khoa, còn các loại sách hướng dẫn học thêm, tài liệu tham khảo,...
50 NĂM TRƯỜNG THPT CẨM BÌNH DẤU ẤN VÀ TỰ HÀO
hầu như không ai có. Ngày đó, chưa có mạng Internet, nên muốn tìm hiểu kiến
thức cũng rất khó khăn, chỉ còn cách đến thư viện trường, mà thư viện trường các
loại sách, tài liệu cũng rất ít; vì vậy chỉ còn cách là “nghiền ngẫm” sách giáo khoa
và bài giảng của giáo viên, những gì chưa hiểu, đến lớp tranh thủ hỏi các thầy, cô.
Không riêng gì chúng tôi, mà cuộc sống của cán bộ, giáo viên, nhân viên trường
ngày đó cũng khó khăn, thiếu thốn. Hầu hết các thầy, cô ở trong khu nội trú của
trường, đó là những dãy nhà được làm bằng tre, lợp lá tro, vách trát bùn đất; chế
độ lương thực, thực phẩm được cấp phát bằng tem, phiếu, vừa chỉ đủ cho cuộc
sống tối thiểu hằng ngày. Để cải thiện bữa ăn, một số thầy, cô đã tranh thủ những
khoảng đất trống trong trường trồng các loại rau, củ, quả, nuôi gà,...
Cuộc sống gian khổ, thiếu thốn, nhưng thầy, trò vô tư và rất vui, học ra học,
chơi ra chơi, làm ra làm. Những buổi thể thao, thầy trò cùng nhau quần bóng trên
sân trường đầy bùn đất; những buổi lao động cộng sản của Đoàn trường, tổ chức
bồi đắp thêm kênh dẫn nước Kẻ Gỗ, thầy trò cùng nhau trong dây chuyền đất,
[114] quần áo bê bết bùn...; rồi những vụ sản xuất, buổi sáng thầy trò cùng nhau tới