Page 44 - Đặc san HNLTKG 2019
P. 44
Nhà Giáo
chẳng hạn cao hơn lương phó quận trưởng coi như học lễ là học làm người, học văn là
hành chánh hoặc trưởng ty của một tỉnh. Mấy học kiến thức và học lễ là ưu tiên. Hiện nay
tháng hè vẫn ăn lương bình thường, không có hình như có khoảng cách giữa lý thuyết và
tiền giờ phụ trội nhưng bù lại có thêm tiền coi thực tế theo câu nói đùa Tiên học phí hậu học
thi, chấm thi và tiền di trú cũng kha khá . văn. Như vậy coi như đã bỏ cái lễ mà chỉ còn
cái văn. Mà cái văn thì có vẻ cũng không khá,
Thời xa xưa dân gian ta có câu: chẳng gọi nôm na là văn chương cỡ như thi sĩ Tản
tham ruộng cả ao liền, chỉ tham cái bút cái Đà Nguyễn Khắc Hiếu đã nói: Văn chương
nghiên anh đồ. Cô gái nào đó nói rất khéo mà hạ giới rẻ như bèo. Người ta thường nói và
sâu sắc rằng không thích lấy chồng giàu sang hiểu chữ nghĩa hai từ đi liền nhau, nhưng
mà thích lấy chồng là nhà giáo, là người thầy thực tế một người có chữ chưa hẳn là có
cho dù nhà giáo nghèo rớt mùng tơi đi nữa. nghĩa. Người ta nói một người nào đó có học
Nói vậy thôi chứ thực hư không biết ra sao. thì thường hàm ý khen người đó có phẩm
Nhưng người thầy thuở trước cũng đã từng bị chất tốt. Trong thực tế, có thể một người có
chê là dài lưng tốn vải ăn no lại nằm. học nhưng chưa hẳn là có văn hóa.
Cũng thời xa xưa, người ta đánh giá
rất cao người thầy như theo thứ bậc trong xã
hội Quân Sư Phụ, vậy là xếp người thầy cao
hơn cả bậc cha mẹ. Muốn con hay chữ phải
yêu lấy thầy , ở đây coi như học sinh yêu lấy
thầy, theo nghĩa bóng chứ không phải nghĩa
đen. Chữ yêu ở đây cũng gây nhiều tranh cãi
vì phải hiểu như thế nào mới được cho là
đúng, mà mỗi người có cách giải thích chữ
yêu của mình, từ nghiêm túc đến hài hước.
Theo truyền thống trong xã hội Việt Ở Việt Nam, đồng bào dân tộc thiểu
Nam, người ta phân hạng các giới theo nghề số sống trong vùng rừng núi xa xôi hẻo lánh
nghiệp chính như sau: Sĩ, Nông, Công, lại thường rất khao khát cho con em họ được
Thương, về sau có thêm nghề thứ 5 nữa là đi học, học làm sao để lấy được cái chữ, để
Binh thành ra Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh. bắt được con chữ. Mà trường học thường ở
Không bao giờ được quên dấu phẩy nằm giữa xa, học trò có khi phải trèo đèo vượt suối
hai chữ Thương và Binh , bằng không sẽ băng rừng để đến trường , có khi nguy hiểm
thành Thương Binh thì nguy to . Tất nhiên đến cả tính mạng. Hoàn cảnh trẻ em vùng
người thầy được xếp vào hạng Sĩ. Dân gian nông thôn hoặc vùng sâu vùng xa ở Việt Nam
cũng nói thêm về hạng Sĩ và trêu chọc như cũng tương tự, chẳng những khó khăn về con
sau: Nhất Sĩ nhì Nông , hết gạo chạy rông đường đến trường mà còn khó khăn về quần
nhất Nông nhì Sĩ . áo, dụng cụ học tập, tiền học ... vân vân. Khó
khăn chồng chất khi gặp thiên tai như bão lũ.
Câu Tiên học lễ hậu học văn có từ thời Khó khăn càng nhiều thì trẻ em những vùng
xưa, thời Nho học còn thịnh, được coi như là khó khăn càng khao khát được đi học. Đây là
châm ngôn, là khuôn vàng thước ngọc cho điều rất đáng suy nghĩ. Về mặt này, chương
việc học và dạy. Nội dung câu nói chịu nhiều trình truyền hình Cặp lá yêu thương của Đài
biến đổi qua thời gian và thực tế xã hội . Tạm
Hội Ngộ Liên Trường Kiên Giang 2019 Trang 42