Page 34 - LSDB xa Xuan Thuong
P. 34
Xuất phát từ những nhận thức ấy, ngay từ sớm ở Thượng
Phúc đã mở rất nhiều lớp học. Xóm nào cũng có ông đồ mở lớp
dạy chữ Hán, mỗi lớp có 15 - 20 học trò. Những gia đình khá giả
thường đón thầy đồ về dạy riêng cho con em mình. Người thầy
giáo được Nhân dân yêu mến, kính trọng, ai ai cũng nhớ câu:
“Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”
Mặc dù cuộc sống còn bộn bề những khó khăn nhưng bằng
ý chí và tinh thần hiếu học, người dân Thượng Phúc đã vươn
lên vượt qua tất cả. Làng đã thành lập Hội tư văn để thu hút
những người có học thức, có văn bằng khoa cử và xây Văn
đàn để thờ Khổng Tử (ở khu vực xóm 6). Bên trong Văn đàn
có bia đá khắc tên những người thi đỗ, thành đạt qua con
đường học vấn. Văn đàn cũng là nơi hội tụ thường xuyên của
những người có học và hiếu học để bình luận thơ ca, luận bàn
thế sự. Làng đã dành ra 3 mẫu ruộng mật điền cấp cho Hội
tư văn để làm quỹ hoạt động và tế Khổng Tử hằng năm vào
rằm tháng Giêng.
Từ khi thực dân Pháp đô hộ nước ta (năm 1858), chúng
thực hiện chính sách “ngu dân” nhằm làm cho dân ta u tối,
dốt nát để chúng dễ bề cai trị. Bằng các thủ đoạn từ tuyên
truyền xuyên tạc (chê bai, nói xấu chữ Hán) đến các biện
pháp cấm đoán, chúng đã dần dần xóa sạch các lớp dạy chữ
Nho trong làng. Khoảng năm 1920 trở đi, chúng cho mở
trường dạy chữ Quốc ngữ và chữ Pháp với mục đích đào tạo
ra những tay sai phục vụ cho công việc xâm lược và thống trị
của chúng. Đa phần học sinh là con em những gia đình khá giả.
Tuy nhiên, với truyền thống hiếu học, nhiều gia đình khó khăn
vẫn cố lo cho con em mình được cắp sách tới trường với mong
muốn để chúng khỏi thất học, để chúng biết cách làm người.
33